Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.51 MB, 107 trang )
• – Vi khuẩn Gram dương: vách tế bào dày có chứa
nhiều peptidoglycan (mucopeptid hay murein) với
tỉ lệ từ 80% − 90% và teichoic acid. Vì vậy, vi khuẩn
Gram dương có màu tím khi được nhuộm kép với
fuschin và tím tinh thể.
• – Vi khuẩn Gram âm : vách tế bào mỏng gồm 3 lớp
: màng tế bào trong cùng, lớp peptidoglucan (chỉ
khoảng 10%) và lớp dày ngoài cùng (chiếm 80%)
với lippoprotein và lipopolysaccharid tạo phức
hợp lipid-polysaccharid.
• – Mycoplasma là nhóm vi khuẩn có kích thước
nhỏ nhất, đặc biệt là không có vách tế bào. Chúng
sống kí sinh ở cơ thể động vật, thực vật và côn
trùng
III. CÁC CẤU TRÚC PHÍA NGOÀI
MÀNG VÀ CÁC NỐI LIÊN BÀO
• Trên bề mặt các tế bào nhân thực có các cấu trúc
như vách tế bào thực vật, nền ngoại bào
(extracellular matrix - ECM) của tế bào động vật,
các nối liên bào (intercellular junctions) hỗ trợ gắn
các tế bào với nhau thành những cấu trúc cấp cao
hơn. Ở thực vật, nấm và vi khuẩn vách tế bào tách
biệt hẳn với màng sinh chất. Vỏ của tế bào động
vật không có sự tách biệt đó, được gọi là
glycocalix. Các carbohydrate của nó gắn với các
phân tử glycoprotein và glycolipid. Các chất này
chỉ nằm ở bề mặt bên ngoài tấm lipid 2 lớp.
1. Vách tế bào thực vật
•
Từ lâu người ta đã phát hiện vách tế bào thực
vật, nấm và phần lớn vi khuẩn có vách tế bào, giàu
carbohydrate phía ngoài màng sinh chất.
• Cấu tạo : Vách tế thực vật nằm ngoài màng sinh
chất, nói chung không được coi là một phần của
tế bào chất, tuy nó là sản phẩm của tế bào. Thành
phần cấu trúc căn bản là phức hợp
polysaccharide cellulose dưới dạng các sợi chỉ
dài. Các sợi cellulose được gắn với nhau nhờ chất
nền của các carbohydrate khác chủ yếu là pectin
và hemicellulose. Vách tế bào có nhiều lỗ để
nước, không khí và các chất hoà tan có thể qua lại
tự do. Chức năng cho các chất ra vào thuộc màng
sinh chất.
• Phần đầu tiên của vách tế bào xuất hiện khi tế
bào còn non gọi là vách sơ cấp (primary wall).
Nếu tế bào tiếp tục tăng trưởng chúng chỉ có
vách này. Khi các vách của hai tế bào gặp nhau ở
giữa chúng sẽ hình thành phiến giữa (middle
lamella) gắn chúng lại với nhau. Pectin dưới dạng
pectate calcium là thành phần căn bản của phiến
giữa. Nếu pectin bị tan các tế bào gắn vào nhau
yếu hơn. Trái cây chín mềm đi do pectin lúc đó
chuyển sang dạng hoà tan.
•
Các tế bào mô mềm của thực vật chỉ có vách
sơ cấp và phiến giữa. Sau khi ngừng tăng
trưởng, các tế bào lập tức hình thành vách thứ
cấp (secondary wall) cứng hơn, có nhiều chất gỗ
hơn và các lớp khác của vách tế bào
• Vách thứ cấp cũng do tế bào chất tạo ra nên
nó nằm giữa vách sơ cấp và màng tế bào.
Vách sơ cấp thường dày hơn thứ cấp và
gồm nhiều lớp chặt chồng nhau. Các lớp sợi
cellulose xếp song song với nhau và lớp này
với lớp khác chéo nhau theo góc 60o - 90o.
Sự sắp xếp như vậy làm tăng độ cứng của
vách tế bào. Ngoài cellulose vách thứ cấp
thường chứa lignin (mộc tố) làm cứng hơn.
•
Vách tế bào của cả nấm và vi khuẩn khác
với tế bào thực vật ở chỗ không phải
cellulose, mà chitin mới là thành phần cấu
trúc chính. Vỏ tôm cũng chứa nhiều chitin.
Một phần của vách tế bào vi khuẩn còn có
murein.
• Chức năng: Vách cellulose - pectic tạo
một khung cứng giúp tế bào thực vật
có hình dạng tối thiểu và có thể coi
như làm bộ xương cho tế bào thực vật,
đặc biệt ở tế bào có vách thứ cấp.
Ngoài ra, vách còn là ranh giới ngoài
cùng bảo vệ tế bào chống chịu với tác
động bên ngoài. Khi thực vật tiến lên
môi trường cạn tác động của môi
trường sống khắc nghiệt hơn thì vai
trò của vách tế bào càng lớn.
Vách thứ cấp
Hình 4.10. Vách
tế bào và phiến
giữa các tế bào
kề nhau.
Plasmodesmata
= nối cầu sinh
chất
Vách sơ cấp
Phiến giữa
Không bào
Bào tương
Màng sinh chất
Vách tế bào
2. Chất nền ngoại bào tế bào động vật
• Tế bào động vật không có vách cứng, nhưng chúng tạo
ra chất nền ngoại bào (extracellular matrix - ECM).
• Cấu trúc: Thành phần chủ yếu của ECM là các
glycoprotein do tế bào tiết ra. Glycoprotein dồi dào nhất
trong ECM của hầu hết tế bào động vật là collagen, mà
nó tạo ra những sợi chắc bên ngoài tế bào. Trên thực tế,
số lượng collagen chiếm khoảng một nữa tổng protein cơ
thể người. Các sợi collagen cắm vào mạng lưới đan lại
của các proteoglycan (có thể đạt đến 95% carbohydrate).
Các phức hợp proteoglycan gồm hàng trăm sợi gắn
không cộng hóa trị với một phân tử polysaccharide dài.
Một số tế bào gắn vào chất nền ngoại bào bởi các
glycoprotein khác như fibronectin. Fibronectin và các
protein ECM khác gắn vào các protein thụ thể bề mặt tế
bào, gọi là integrin chèn vào màng sinh chất. Ở phía tế
bào chất, integrin nối với các vi sợi của khung sườn tế
bào.
Các sợi
collagen cắm
vào lưới
proteoglycan
Fibronectin
Dịch ngoại bào
gắn vào
integrin chèn
vào màng
sinh chất
Màng sinh
chất
Các phức hợp
proteoglycan
gồm hàng trăm
sợi gắn liên
kết yếu với 1
phân tử
polysaccharide
dài
Các Integrin là
các protein
màng gồm 2
tiểu phần
Chất nền ngoại bào tế bào động vật
Chức năng:
• Chất nền ngoại bào có nhiều chức
năng quan trọng cho sự sống tế bào:
• - Bộ khung đảm bảo độ cứng cơ học
cho tế bào động vật, giúp chống chịu
các tác động căng thẳng từ ngoài. Đặc
biệt, các tế bào mô liên kết, như xương
và gân, chứa đầy ECM là cơ sở của
tính bền vật lý của các tế bào.