Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 509 trang )
Nhưng từ thường có tính đa nghĩa, nhất là một từ
quan trọng. Nếu tác giả dùng một từ theo nghĩa
này mà độc giả lại hiểu nó theo nghĩa khác, tức là
hai bên hoàn toàn không có sự thống nhất về ý
niệm mặc dù đã có sự chuyển giao ngôn từ. Khi
ngữ nghĩa chưa rõ ràng coi như hoạt động giao
tiếp chưa xảy ra hoặc xảy ra không trọn vẹn. Nếu
tình trạng mập mờ này cứ tiếp diễn, tác giả và độc
giả sẽ không thể đạt được sự thống nhất về ý kiến.
Vì vậy, để giao tiếp thành công, cả hai bên cần
phải dùng những từ có nghĩa giống nhau, tức là
phải thống nhất về thuật ngữ.
Một thuật ngữ có thể hiểu là một từ rõ ràng về
ngữ nghĩa. Điều này cũng chưa hoàn toàn xác
đáng vì xét một cách chặt chẽ thì không có từ nào
là hoàn toàn rõ nghĩa. Vì thế, chúng ta nên hiểu
thuật ngữ là một từ được dùng một cách rõ
nghĩa. Trong từ điển, chúng ta có thể tìm thấy vô
số từ không rõ nghĩa, hay đa nghĩa. Tuy nhiên, một
từ đa nghĩa vẫn có thể được sử dụng với một
nghĩa duy nhất tại một thời điểm cụ thể. Khi tác giả
và độc giả dồng thời sử dụng một từ với chỉ một
nghĩa chung duy nhất, nghĩa là hai bên đã đạt đến
sự thống nhất về ý kiến.
Bạn không thể tìm thấy các thuật ngữ trong từ
điển dù chất liệu để tạo nên thuật ngữ có sẵn trong
đó. Thuật ngữ chỉ xuất hiện trong quá trình giao
tiếp. Chúng xuất hiện khi người viết muốn tránh
tình trạng mập mờ về nghĩa, và người đọc cố hiểu
từ đó theo đúng ý người viết đã dùng. Đồng nhất ý
kiến chính là mục tiêu mà tác giả và độc giả cùng
nỗ lực hướng tới. Vì thuật ngữ là một trong những
thành tựu hàng đầu của nghệ thuật viết và đọc, nên
chúng ta có thể coi nó như nghệ thuật sử dụng
từ ngữ một cách điêu luyện nhằm mục đích
truyền đạt kiến thức.
Thơ ca và các tác phẩm hư cấu không quá
chú trọng sử dụng từ ngữ một cách tường minh
như những tác phẩm khoa học. Hơn nữa, một thi
phẩm càng giàu hàm ý càng được coi là tuyệt tác.
Trên thực tế, bất cứ nhà thơ tài danh nào cũng
thường cố ý tạo ra sự “mập mờ” trong tác phẩm
của mình. Đây cũng chính là một trong những điểm
khác nhau cơ bản giữa các tác phẩm thơ ca và tác
phẩm mô tả.
Tiếp theo là quy tắc 5 của quá trình đọc phân
tích: TÌM CÁC TỪ QUAN TRỌNG VÀ QUA
ĐÓ ĐI ĐẾN THỐNG NHẤT THUẬT NGỮ
VỚI TÁC GIẢ.
Quy tắc này có hai phần rõ ràng: Thứ nhất,
tìm ra các từ quan trọng tạo nên sự khác biệt; thứ
hai, xác định chính xác nghĩa của các từ này theo
dụng ý của tác giả.
Đây là quy tắc đầu tiên cần áp dụng cho giai
đoạn thứ hai của quá trình đọc phân tích. Quy tắc
này không nhằm mục đích tìm ra cấu trúc của
cuốn sách mà hướng tới việc phân tích nội dung
sách hay thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đó.
Nó giống các quy tắc còn lại của giai đoạn hai ở
chỗ tất cả đều yêu cầu độc giả tiến hành hai bước:
một là xử lý ngôn ngữ đơn thuần và hai là phân
tích cách sử dụng ngôn ngữ để có thể hiểu được
các ý tưởng ẩn chứa trong đó.
Khi sáng tác các tác phẩm mô tả, tác giả cần
vận dụng ngôn ngữ một cách tốt nhất. Để làm
được như thế, cách duy nhất là sử dụng ngôn ngữ
điêu luyện hết mức có thể khi truyền đạt hay thu
nhận kiến thức.
Ngôn ngữ không phải là một phương tiện
truyền tải tri thức hoàn hảo nên đôi khi nó cản trở
hoạt động giao tiếp. Các quy tắc đọc phân tích
đều hướng tới việc vượt qua trở ngại này. Chúng
ta luôn trộng đợi một tác giả có năng lực sẽ vượt
qua mọi rào cản ngôn ngữ để đến với độc giả,
nhưng thực tế không tác giả nào có thể hoàn toàn
tự mình gánh vác nhiệm vụ này. Độc giả phải san
sẻ một nửa gánh nặng đó để đến với tác giả. Sự
gặp gỡ về tư tưởng thông qua phương tiện ngôn
ngữ phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng hợp tác của
cả hai phái tác giả và độc giả. Nếu hoạt động
“dạy” không có hoạt động tương hỗ là “học” thì
“dạy” chẳng có giá trị gì. Tương tự, không có tác
giả nào, dù tài năng đến đâu, có thể truyền đạt
được ý tưởng của mình nếu không có sự hỗ trợ
của độc giả, tức là không có sự gặp gỡ về ý
tưởng.
Như đã nói ở trên, mỗi quy tắc đọc phân tích
đều liên quan đến hai khía cạnh là ngữ pháp và
logic. Khía cạnh ngữ pháp là phần xử lý từ ngữ,
khía cạnh logic là bước xác định ý nghĩa hay nói
một cách chính xác là xác định các thuật ngữ. Cả
hai bước đều không thể thiếu trong giao tiếp, Nếu
ngôn ngữ tách rời khỏi tư tưởng thì hoạt động giao
tiếp không thể diễn ra. Tư tưởng hay kiến thức
cũng không thể truyền đạt được nếu thiếu phương
tiện ngôn ngữ. Ngữ pháp và logic gắn kết với
ngôn ngữ nhờ mối liên hệ với tư duy, và gắn kết
với tư duy nhờ mối liên hệ với ngôn ngữ. Điều này
lý giải tại sao các kỹ năng đọc và viết được hình
thành thông qua ngữ pháp là logic.
Một lần nữa, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng
một từ có thể là phương tiện để giải thích nhiều
thuật ngữ, và một thuật ngữ có thể được diễn giải
bằng nhiều từ. Ví dụ, trong cuốn sách này, từ
“reading” (đọc) đã được sử dụng với nhiều nghĩa
khác nhau: (1) đọc để giải trí, (2) đọc để lấy thông
tin, (3) đọc để hiểu biết. Nếu ký hiệu từ “đọc” là
X và ba nghĩa nêu trên là a, b, c, chúng ta sẽ có
các ký hiệu Xa, Xb, Xc. Không thể coi chúng là ba
từ khác biệt vì cả ba đều có chung gốc X. Nhưng
chúng được coi là ba thuật ngữ với điều kiện bạn
(độc giả) và chúng tôi (tác giả) biết rõ khi nào thì
X được dùng với một nghĩa này chứ không phải
nghĩa kia. Nếu chúng tôi viết Xa bạn hiểu thành Xb
chứng tỏ chúng tôi và các bạn cùng hiểu một từ
theo các cách khác nhau. Tình trạng “viết một
đằng hiểu một nẻo” như vậy sẽ làm hỏng hoặc ít
nhất là cản trở hoạt động giao tiếp. Chỉ khi chúng
ta cùng nhìn nhận một từ theo cùng một cách thì
mới có sự giao lưu về tư duy. Tư tưởng của chúng
ta không thể gặp nhau ở X mà phải ở Xa, Xb, Xc.
Tìm những từ khoá
Để thống nhất các thuật ngữ với tác giả, dộc
giả phải tìm ra các từ khoá – các từ quan trọng
trong cuốn sách.
Có một điều chắc chắn là không phải từ nào
tác giả sử dụng cũng đều quan trọng. Trong hầu
hết các trường hợp, chỉ những từ được sử dụng
đặc biệt mới quan trọng với cả tác giả và độc giả.
Có những từ được tác giả dùng theo lối dân gian
như trong ca dao, tục ngữ nên độc giả hiểu chúng
không mấy khó khăn. Họ đã quen với những ẩn ý,
những biến đổi sắc thái ý nghĩa của các từ đó
trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Ví dụ từ “reading” (đọc) trong cuốn The
Nature of the Physical World (Bản chất của thế
giới vật chất) của tác giả A.S.Eddington. Ông
dùng từ “pointer-reading” để chỉ việc đọc các con
số hay ký hiệu trên các dụng cụ khoa học, tức là
sử dụng từ “reading” theo nghĩa hoàn toàn thông
dụng chứ không phải theo nghĩa chuyên môn. Nói
cách khác, ông đã dựa trên ngôn ngữ đời thường
để truyền đạt ý tưởng của mình tới độc giả. Giả sử
nếu ông sử dụng từ “reading” theo một nghĩa khác
ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn
trong cụm từ “reading nature” (bản chất của việc
đọc) – thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự
chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ “reading”. Nếu
độc giả nào không nhận thấy sự chuyển đổi này thì
rất khó có thể giao tiếp hay làm việc. Nhưng với
từ “cause” (nguyên nhân), Eddington lại không thể
sử dụng theo nghĩa dễ hiểu như vậy. Mặc dù đó là
một từ thông dụng nhưng khi bàn về thuyết nhân
quả, tác giả đã sử dụng nó theo nghĩa rất khác
biệt.
Đa số từ ngữ trong sách đều được các tác giả
sử dụng theo phong cách hội thoại thông thường,
với nhiều tầng nghĩa khác nhau. Người đọc chỉ có
thể nhận ra sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của
chúng thông qua ngữ cảnh cụ thể. Nắm vững thực
tế này có thể giúp độc giả phát hiện những từ quan
trọng hơn. Tuy nhiên, cần nhớ rằng những từ giống
nhau tại những thời điểm, vị trí khác nhau, lại được
sử dụng với nghĩa khác nhau. Các tác giả đương
thời sẽ sử dụng phần lớn những từ thông dụng
trong cuộc sống hiện tại, và bạn có thể dễ dàng
hiểu được chúng khi bạn sống cùng thời với tác
giả. Nhưng với các tác phẩm được sáng tác trước
đó, bạn sẽ gặp khó khăn trong việc nhận biết
những từ ngữ mà tác giả sử dụng theo đúng cách
người ta vẫn dùng tại thời gian và địa điểm sáng
tác. Việc một số tác giả chú ý sử dụng những từ
cổ hoặc các nghĩa cổ khiến cho việc đọc sách
cũng gây khó khăn không kém việc dịch sách.
Bạn không thể xác định được các từ khoá
trong một đoạn nếu không hiểu nội dung của cả
đoạn. Có thể vì bạn không hiểu cách tác giả sử
dụng một số từ cụ thể nên sẽ không hiểu đầy đủ
cả một đoạn. Hãy đánh dấu những từ khó hiểu vì
đó thường là những từ được tác giả sử dụng một
cách đặc biệt. Do đó, độc giả vẫn thường cho
rằng những từ quan trọng nhất là những từ làm họ
thấy khó hiểu. Trên thực tế những từ đó có thể
quan trọng hoặc có thể không đối với chính tác
giả.
Cũng có trường hợp, những từ quan trọng đối
với tác giả không gây khó khăn gì cho bạn vì bạn
hoàn toàn hiểu chúng. Khi đó, bạn đã đạt được sự
thống nhất về thuật ngữ với tác giả. Chỉ khi nào
bạn không thể hiểu được đúng ý tác giả, bạn mới
cần thực hiện các bước tiếp theo.
Các từ chuyên môn và từ vựng
đặc biệt
Để phát hiện các từ quan trọng, bên cạnh dấu
hiệu, dựa trên thực tế là độc giả thấy khó hiểu,
còn có một số dấu hiệu sau đây giúp bạn nhận
diện chúng.
Dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất là việc tác
giả nhấn mạnh một cách dứt khoát vào những từ
cụ thể. Tác giả có thể dùng dấu trích dẫn hoặc
chữ in nghiêng để đánh dấu các từ đó giúp người
đọc dễ phát hiện; hoặc hướng sự chú ý của độc
giả vào từ đó bằng cách đề cập các nghĩa khác
nhau của từ và chỉ rõ cách dùng trong những tình
huống cụ thể; hoặc tác giả có thể nhấn mạnh bằng
cách định nghĩa vật được gọi tên bằng từ đó.
Không ai có thể đọc được các tác phẩm của
Euclid nếu không hiểu rằng những từ “điểm”,
“đường thằng”, “mặt phẳng”, “góc”, “song song”
và một số từ khác là tối quan trọng. Đây là những
từ được dùng để gọi tên các thực thể hình học mà
Euclid đã định nghĩa. Một số từ khác cũng khá
quan trọng như “bằng”, “toàn thể”, “bộ phận”
nhưng chúng không phải là tên gọi của bất cứ thứ
gì được Euclid định nghĩa. Bạn nhận biết được tầm
quan trọng của những từ này vì chúng xuất hiện
trong các tiên đề. Euclid đã giúp bạn thấy dễ hiểu
hơn bằng cách làm rõ những định đề ngay từ đầu.
Bạn có thể đoán những thuật ngữ cấu thành nên
các định đề đều là những thuật ngữ cơ bản, dựa