1. Trang chủ >
  2. Thể loại khác >
  3. Tài liệu khác >

11 Đồng ý hay bất đồng với tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 509 trang )


hiểu, độc giả sẽ không nhất thiết phải thể hiện là

mình hiểu cuốn sách nữa.

Song, giả sử bạn đang đọc một quyển sách

hay, tức là một quyển sách có thể hiểu được, bạn

không chỉ hiểu nội dung của nó mà còn đồng ý

hoàn toàn với ý kiến của tác giả thì công việc coi

như đã hoàn thành. Quá trình đọc phân tích đã

xong và bạn đã hiểu, đã bị thuyết phục. Chỉ khi

nào bạn không đồng tình hoặc không thể đưa

ngay ra lời đánh giá phê bình, chúng ta mới cần

triển khai một số bước tiếp theo.

Trong trường hợp tác giả đưa ra một lập luận

với mong muốn độc giả lập luận trở lại, thì một

độc giả có năng lực cần phải biết các quy tắc lập

luận. Độc giả cần tham gia tranh luận một cách lịch

thiệp và thông minh. Độc giả không chỉ đơn giản đi

theo lập luận của tác giả mà phải đối diện với

chúng để đi đến sự đồng ý hay bất đồng với tác

giả.

Một độc giả thống nhất thuật ngữ với tác giả,



nắm bắt được những nhận định cũng như lập luận

của tác giả là người chia sẻ quan điểm với tác giả.

Trong thực tế, toàn bộ quá trình cảm thụ này được

chỉ dẫn vởi sự gặp gỡ về tư tưởng thông qua

phương tiện ngôn ngữ. Ta có thể mô tả việc hiểu

một cuốn sách là sự đồng tình giữa người viết và

người đọc về cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt

ý kiến. Nhờ sự đồng tình đó, người đọc có thể

nhìn thấu được ngôn ngữ người viết đã sử dụng để

thể hiện ý tưởng.

Vấn đề là nếu một độc giả đã hiểu nội dung

một cuốn sách, anh ta có thể bất đồng với nó nữa

không? Việc đọc tích cực yêu cầu người đọc phải

đưa ra quyết định của chính mình. Nhưng vì đã

hiểu (tức là tư tưởng của người đọc và người viết

đã hoà quyện thành một) thì còn phần tư tưởng

nào đưa người đọc đến những quyết định độc

lập?

Sai lầm của một số người là không phân biệt

được hai nghĩa của từ “đồng ý”. Họ lầm tưởng



rằng nếu đã hiểu nhau thì không thể có sự bất

đồng ý kiến. Họ cho rằng tất cả các bất đồng đều

xuất phát từ hiểu lầm.

Ví dụ, nếu bạn nói “mọi người đều bình đẳng”,

chúng tôi có thể nghĩ là bạn cho rằng khi sinh ra, ai

cũng được tạo hoá ban cho trí thông minh, sức

khoẻ và những khả năng khác hoàn toàn như

nhau. Chúng tôi không đồng ý với bạn và cho rằng

bạn đã sai vì thực tế không phải vậy. Tuy nhiên,

cũng có thể chúng tôi đã hiểu sai ý bạn. Giả sử ý

của bạn khi nói câu trên là “tất cả mọi người cần

được hưởng quyền chính trị bình đẳng”. Như vậy,

vì không hiểu đúng ý bạn, sự bất đồng của chúng

tôi là không hợp lý. Nhưng ngay cả khi chúng tôi

đã hiểu đúng ý bạn thì vẫn còn hai sự lựa chọn:

chúng tôi có thể đồng ý hoặc không đồng ý. Nếu

chúng tôi không đồng ý, giữa chúng ta đã phát

sinh một vấn đề thật sự. Đó là chúng tôi hiểu được

quan điểm chính trị của bạn, nhưng chúng tôi theo

một lập trường khác.



Những vấn đề về thực tế hay quan điểm,

những nhận định về cách tồn tại của các sự vật

hay cách mà chúng nên tồn tại chỉ trở thành điều

đáng bàn cãi khi chúng được dựa trên sự đồng

hiểu biết giữa các bên. Sự thống nhất trong cách

sử dụng từ ngữ là điều kiện không thể thiếu để có

thể đồng ý hay không đồng ý với những vấn đề

được đề cập đến. Đây chính là sự gặp gỡ về mặt

tư tưởng giữa bạn và tác giả dẫn đến việc bạn

đồng ý hay không với quan điểm của tác giả.



Định kiến và đánh giá

Khi có sự bất đồng với tác giả, bạn cần có đủ

ba điều kiện dưới đây để lập luận cho sự bất đồng

của mình.

Thứ nhất, bạn cần phải thừa nhận những cảm

xúc mình đưa vào quá trình lập luận, hoặc phát

sinh trong quá trình đó. Tránh trường hợp bạn nghĩ

rằng mình đưa ra các lập luận, nhưng thực tế là

bạn bị chi phối bởi các xúc cảm mạnh mẽ.

Thứ hai, bạn phải diễn đạt rõ ràng các nhận



định của mình. Bạn phải hiểu rõ những định kiến

của mình. Nếu không, có thể bạn sẽ không thừa

nhận rằng đối phương cũng có quyền đưa ra

những nhận định khác. Một cuộc tranh luận có ý

nghĩa không nên là một cuộc cãi vã về các nhận

định. Giả sử, nếu một tác giả yêu cầu bạn coi một

điều gì đó là hiển nhiên, bạn nên trân trọng đề nghị

của ông ta ngay cả khi biết trong thực tế, một

quan điểm đối lập với điều đó cũng có thể coi là

điều hiển nhiên. Nếu bạn có những định kiến đối

lập với quan điểm này và bạn không thừa nhận

chúng là định kiến, bạn sẽ không thể nghe tác giả

trình bày quan điểm một cách công minh.

Thứ ba, bạn cần tránh thiên vị đến mức mù

quáng. Hãy nỗ lực đạt tới sự công bằng. Tất nhiên

là không thể có tranh luận nếu không có sự thiên

vị. Song, để đảm bảo tranh luận công bằng hơn, ít

gay gắt hơn, mỗi cá nhân cần đặt mình vào địa vị

của đối phương. Nếu bạn không biết cách thông

cảm khi đọc một quyển sách, sự bất đồng của bạn



có thể mang tính chất tranh cái chứ không tế nhị

hay lịch sự.

Về mặt lý tưởng, ba điều kiện này là điều kiện

thiết yếu để có một cuộc đàm luận thông minh và

hữu ích. Chúng có thể được áp dụng trong quá

trình đọc chừng nào còn có một quá trình đối

thoại giữa người đọc và người viết. Mỗi điều kiện

là một lời khuyên hữu ích giúp độc giả biết trân

trọng phép lịch sự trong tranh luận.

Tuy nhiên, sự lý tưởng ở đây cũng chỉ là tương

đối. Vì vậy, chúng tôi sẽ thay thế ba điều kiện lý

tưởng trên bằng một hệ thống quy tắc dễ thực hiện

hơn bao gồm bốn cách phê bình một cuốn sách.

Hy vọng độc giả nào quán triệt những quan điểm

này, anh ta sẽ không bị cảm xúc hay định kiến chi

phối.

Bốn luận điểm này có thể được tóm tắt như

sau: Khi người đọc nói “Tôi hiểu nhưng tôi không

đồng ý”, anh ta có thể trình bày với tác giả những

ý kiến phê bình sau đây: (1) “Ngài không có đủ



thông tin”; (2) “Ngài đưa ra thông tin không chính

xác”; (3) “Ngài trình bày không logic, lập luận của

ngài không thuyết phục”; (4) “Quá trình phân tích

của ngài chưa hoàn chỉnh”.

Bốn đánh giá phê bình trên có thể chưa hoàn

chỉnh, nhưng đây là những điểm chủ yếu mà một

độc giả không đồng tình có thể đưa ra. Những

điểm này khá độc lập với nhau. Bạn có thể đưa ra

một hoặc hai, ba hay cả bốn luận điểm vì các luận

điểm không loại trừ nhau.

Chúng tôi cũng lưu ý rằng, một độc giả không

thể đưa ra bất cứ lời bình nào trong số nêu trên

nếu không chắc chắn hoặc không xác định được

chính xác những khía cạnh mà tác giả không có đủ

thông tin, cung cấp thông tin sai hay lập luận thiếu

logic. Bên cạnh đó, khi đưa ra bất cứ nhận xét

nào, độc giả phải có những lâp luận chứng minh

cho quan điểm của mình.



Đánh giá tính hợp lý của tác

giả



Chúng ta hãy cùng xem xét cụ thể ba cách

đánh giá phê bình đầu tiên trong bốn cách trên.

1.

Khi nói một tác giả không có đủ thông

tin, nghĩa là chúng ta cho rằng tác giả thiếu một

lượng kiến thức liên quan mật thiết tới vấn đề mà

anh ta đang cố gắng giải quyết. Nhận xét này chỉ

có giá trị trong trường hợp lượng kiến thức đó là

thích đáng nếu tác giả sở hữu được nó. Để chứng

minh điều này, bạn cần chỉ ra được kiến thức mà

tác giả còn thiếu và phải chứng minh được vì sao

nó thích đáng, cũng như nó sẽ dẫn đến những thay

đổi như thế nào trong các kết luận của tác giả.

Ví dụ, Darwin không có những hiểu biết về di

truyền học nên ông đã bỏ qua bộ máy di truyền

trong cuốn Nguồn gốc các loài. Đây chính là một

trong những khiếm khuyết lớn nhất của cuốn sách.

Sau này, Mendel và các nhà thực nghiệm cùng

ông đã cung cấp lượng kiến thức đó trong các tác

phẩm của họ. Gibbon cũng không có những thông

tin thực tế nhất định về ảnh hưởng của sự sụp đổ



thành Rome. Những thông tin này được cung cấp

bởi các nghiên cứu sau đó. Thông thường, trong

lĩnh vực khoa học và lịch sử, các thông tin bị thiếu

sẽ được các nhà nghiên cứu đi sau khám phá.

Nhưng trong triết học, điều này có thể khác.

Chẳng hạn, người cổ đại đã phân biệt rõ ràng,

những gì con người có thể cảm nhận bằng giác

quan, những gì là tưởng tượng với những gì họ có

thể hiểu. Nhưng đến thế kỷ 18, nhà triết học người

Scotland David Hume hoàn toàn bỏ qua sự khác

biệt giữa hình ảnh và ý tưởng dù nó đã được

khẳng định trong các tác phẩm của những triết gia

trước đó.

2.

Khi nói tác giả cung cấp thông tin sai

nghĩa là tác giả đã khẳng định một điều không

đúng là có thật. Sai lầm này dù xuất phát từ

nguyên nhân gì cũng cho thấy tác giả đã ngộ nhận

mình có kiến thức trong khi thật sự anh ta không

hề có. Những khuyết điểm như vậy cần được chỉ

ra, đương nhiên chỉ khi chúng liên quan mật thiết



tới các kết luận của tác giả. Để chứng minh nhận

xét này, bạn phải lập luận một sự thật hoặc một

khả năng lớn hơn đối lập với sự thật của tác giả.

Ví dụ, trong một hiệp ước chính trị, nhà triết

học người Hà Lan Spinoza gần như cho rằng chế

độ dân chủ là một hình thức chính phủ nguyên thuỷ

hơn chế độ quân chủ. Điều này trái ngược với sự

thật đã được chứng minh trong lịch sử chính trị.

Sai lầm của Spinoza ở khía cạnh này xuất phát từ

lập luận của ông ta. Aristotle cũng đã đưa ra

những thông tin sai lệch về vai trò của giống cái

trong quá trình sinh sản ở động vật. Từ đó, ông

đưa ra những kết luận vô căn cứ về các quá trình

sinh sản…

Hai điểm phê phán đầu tiên này có liên quan

đến nhau. Việc thiếu thông tin có thể là nguyên

nhân dẫn tới các kết luận sai lầm. Ngược lại, khi

một người nhận định sai về một vấn đề có nghĩa là

anh ta không có đủ thông tin về nó. Khi thiếu

những kiến thức cần thiết, chúng ta không thể giải



quyết được những vấn đề nhất định, hoặc không

thể chứng minh cho các kết luận nhất định. Và

những nhận định sai lầm sẽ dẫn tới các kết luận

không chính xác. Tóm lại, hai nhận xét đầu chỉ ra

khuyết điểm của tác giả trong cơ sở lập luận. Tác

giả cần phải có kiến thức đầy đủ hơn, đưa ra

những bằng chứng và lập luận thuyết phục hơn.

3.

Khi nói một tác giả trình bày không

logic tức là tác giả đã ngụy biện trong quá trình

suy luận. Đó có thể là lỗi lập luận không thống

nhất (kết luận rút ra không phù hợp với các lý lẽ

đã trình bày). Khi đưa ra sự nhận xét này, độc giả

cần phải xác định chính xác khía cạnh mà lập luận

của tác giả không thuyết phục. Chúng ta chỉ nên

phê bình khuyết điểm này nếu nó làm ảnh hưỏng

tới kết luận chính vì một cuốn sách có thể thiếu

thuyết phục ở những điểm không quan trọng.

Rất ít cuốn sách hay bị mắc lỗi về lập luận.

Nếu có thì chúng thưòng được che giấu bằng

những miêu tả dài dòng và chỉ người nào đọc tỷ



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (509 trang)

×