Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 509 trang )
hoàn toàn vô nghĩa nếu tác giả không đưa ra dẫn
chứng cụ thể. Khi thật sự quan tâm đến cuốn sách
và đề tài được thảo luận, chúng ta không chỉ muốn
biết nhận định của tác giả mà muốn tìm hiểu xem
tác giả thuyết phục chúng ta chấp nhận những
nhận định đó như thế nào.
Theo đó, quy tắc 7 bàn về các loại luận cứ.
Có nhiều cách lập luận để chứng minh một vấn đề.
Nhưng dù là cách nào, mỗi lập luận đều bao gồm
một số mệnh đề liên quan đến nhau, theo dạng
điều này xảy ra vì điều kia. Các mệnh đề trong
lập luận thường được liên kết với nhau bằng các
từ như: nếu (cái gì xảy ra), thì (kết quả sẽ); hoặc
vì (điều này), nên (có điều kia); hoặc, từ đó suy
ra, chúng ta có thể thấy…
Lập luận là một chuỗi các mệnh đề tạo nền
tảng cơ sở cho một kết luận. Vì thế, cần cả một
đoạn văn, hay ít nhất một tập hợp câu để diễn giải
một lập luận. Không phải bao giờ giả thuyết hay
các quy tắc lập luận cũng được nêu ra ngay từ
đầu, nhưng chúng chính là nguồn gốc của kết luận.
Nếu lập luận đúng đắn thì kết luận sẽ dược suy ra
từ giả thuyết. Điều này không có nghĩa là kết luận
rút ra lúc nào cũng đúng vì có thể có một hoặc tất
cả các giả thuyết sai.
Mỗi cuốn sách không những bao gồm nhiều
từ mà còn có nhiều cụm từ, nhóm câu giữ vai trò
đơn vị. Một độc giả tích cực sẽ không chỉ chú ý
đến từ mà còn chú ý đến câu và đoạn văn, vì đó là
cách duy nhất để có thể xác định các thuật ngữ
cũng như nhận định và lập luận mà tác giả sử
dụng.
Câu và nhận định
Cũng như quy tắc về từ và thuật ngữ, ở đây,
chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
tư duy. Câu và đoạn văn là các đơn vị ngữ pháp,
đồng thời là đơn vị ngôn ngữ. Nhận định và lập
luận là những đơn vị logic, hay đơn vị tư duy và tri
thức.
Vì ngôn ngữ không phải là phương tiện hoàn
hảo để biểu đạt tư duy. Hơn nữa, một từ có thể
có nhiều nghĩa và hai hay nhiều từ có thể đồng
nghĩa nên mối quan hệ giữa hệ thống từ vựng và
thuật ngữ mà các tác giả sử dụng rất phức tạp.
Một từ có thể được biểu thị bằng một vài thuật
ngữ và một thuật ngữ có thể được diễn đạt thông
qua một số từ.
Các nhà toán học đã miêu tả mối liên hệ giữa
những chiếc cúc và khuyết trên một cái áo là sự
tương ứng 1-1. Mỗi cái cúc có một khuyết và mỗi
khuyết ứng với một cái cúc. Điều chúng tôi muốn
nhấn mạnh là mối quan hệ giữa từ và thuật ngữ
không phải là sự tương ứng 1-1. Sai lầm lớn nhất
bạn có thể mắc phải khi áp dụng các quy tắc này
là công nhận sự tồn tại của mối liên hệ 1-1 giữa
các yếu tố ngôn ngữ và các yếu tố tư duy hoặc
kiến thức.
Bạn không nên vội vàng đưa ra giả định, ngay
cả về mối liên hệ giữa cúc áo và khuyết áo. Ta có
thể thấy có những tay áo có vài chiếc cúc trang trí
mà không có cái khuyết nào tương ứng. Ngược
lại, có những khuyết áo không hề có cúc để cài.
Thực tế này có thể áp dụng vào trường hợp của
câu và nhận định. Không phải tất cả các câu trong
sách đều ẩn chứa một nhận định vì có những câu
nêu lên sự nghi vấn. Các câu này chủ yếu nêu vấn
đề chứ không đưa ra câu trả lời. Nhận định
chính là câu trả lời cho những câu hỏi. Chúng
là tuyên ngôn nêu lên tri thức hoặc ý kiến. Điều
này lý giải tại sao chúng ta gọi những câu ẩn chứa
nhận định là câu tường thuật và những câu nêu câu
hỏi là câu nghi vấn. Cũng có loại câu biểu thị mong
muốn hay dự định, giúp độc giả hiểu phần nào
mục đích của tác giả nhưng chúng không đề cập gì
đến những kiến thức mà tác giả sẽ trình bày.
Hơn nữa, không phải cứ tương ứng với một
câu trần thuật là một nhận định được nêu ra. Có ít
nhất hai lý do sau: Thứ nhất, từ thường đa nghĩa
và có thể được dùng trong nhiều câu khác nhau.
Do đó, một câu có thể ẩn chứa nhiều nhận định
khác nhau nếu có sự thay đổi về từ biểu đạt thuật
ngữ. Ví dụ: “Đọc sách chính là học” là một câu
đơn giản, nhưng nếu lúc này ta hiểu “học” là thu
nhận thông tin, lúc khác lại hiểu “học” là nâng cao
hiểu biết thì rõ ràng nhận định đã thay đổi theo sự
thay đổi của thuật ngữ trong khi câu đó không có
gì thay đổi.
Lý do thứ hai, không phải câu nào cũng đơn
giản như câu “Đọc sách chính là học”. Khi các từ
trong câu được sử dụng một cách tường minh thì
một câu đơn giản thường diễn đạt một nhận định
riêng, nhưng một câu ghép thì vẫn nêu lên hai hay
nhiều nhận định. Câu ghép là một tập hợp câu nối
với nhau bởi những từ như “và”, “nếu… thì”,
“không những… mà còn”. Ranh giới giữa một câu
ghép dài và một đoạn văn ngắn vô cùng mong
manh. Một câu ghép có thể nêu lên một số nhận
định liên kết với nhau dưới dạng một lập luận.
Những câu như vậy rất khó phân tích. Ví dụ
câu trích từ tác phẩm The Prince (Quân vương)
của Machiavelli sau đây:
Một ông hoàng luôn làm người khác khiếp sợ,
nếu không được mọi người yêu mến, ông ta sẽ cố
tránh bị thù ghét; vì ông ta có thể chịu đựng rất
giỏi việc người khác khếp sợ mà không căm ghét
mình – điều luôn xảy ra trừ phi ông ta không lấy
của cải của thần dân và chiếm đoạt vợ của họ.
Mặc dù câu trên có vẻ rất phức tạp nhưng về
mặt ngữ pháp, đây là một câu đơn. Dấu chấm
phẩy (;) và từ “vì” báo nhiệu sự ngắt ý. Nhận định
đầu tiên được đưa ra là một ông hoàng luôn khiến
người khác khiếp sợ.
Vế thứ hai bắt đầu bằng từ “vì” và tách ra
thành một câu khác. Có thể diễn đạt đầy đủ câu
này như sau: “Lý do là vì ông ta có thể chịu
đựng…”. Vế thứ hai đã đưa ra ít nhất hai nhận
định: (1) Lý do khiến một ông hoàng luôn làm
người khác khiếp sợ là vì ông ta có thể chịu đựng
được việc mọi người khiếp sợ mình miễn là họ
không căm ghét ông ta; (2) Ông ta chỉ có thể tránh
việc bị căm ghét bằng cách không chiếm đoạt của
cải và vợ của các thần dân.
Việc phân biệt các nhận định ẩn chứa trong
một câu dài và phức tạp rất quan trọng. Muốn tán
thành hay phản đối ý kiến của Machiavelli, trước
hết bạn phải hiểu ông ấy đang nói gì. Rõ ràng chỉ
trong một câu, Machiavelli đã đề cập tới ba nhận
định. Bạn có thể phản đối một trong các nhận định
đó và tán thành những nhận định còn lại. Có thể
bạn cho rằng Machiavelli đã sai lầm khi khuyên
một ông hoàng sử dụng chính sách khủng bố bằng
bất kỳ giá nào. Tuy nhiên, bạn vẫn thấy được sự
sắc sảo của tác giả khi khẳng định rằng một ông
hoàng không nên khơi dậy cùng lúc cả sự căm
ghét và khiếp sợ, và bạn cũng có thể đồng tình với
ông rằng tránh xa của cải và đàn bà chính là điều
kiện bắt buộc để khỏi bị căm ghét. Nếu bạn
không nhận ra những nhận định khác nhau trong
một câu phức tạp, bạn không thể đánh giá đúng
những gì mà tác giả đang trình bày.
Các luật sư nắm rất chắc vấn đề này. Họ phải
kiểm tra câu chữ rất cẩn thận để biết rõ nguyên
đơn đưa ra chứmg cứ gì, hoặc bị cáo phủ nhận
điều gì. Một câu đơn như “John Doe đã ký hợp
đồng ngày 24 tháng 3” trông có vẻ đơn giản
nhưng nó nói lên nhiều điều cả đúng và sai. Có thể
John Doe đã ký hợp đồng nhưng không phải vào
ngày 24 tháng 3 và đây là một thông tin quan
trọng. Tóm lại, ngay cả một câu có cấu trúc ngữ
pháp đơn giản cũng có thể nêu lên hai hay nhiều
nhận định.
Chúng tôi đã nêu đầy đủ các dấu hiệu để phân
biệt câu và nhận định. Giữa chúng không có sự
tương ứng 1-1. Không những một câu đơn có thể
diễn tả một vài nhận định nhờ tính đa nghĩa hay
tính phức tạp, mà cùng một nhận định còn có thể
được diễn đạt thông qua hai hay nhiều câu khác
nhau. Một độc giả ít nhiều phải có kiến thức ngữ
pháp. Bạn không thể xem xét các thuật ngữ, nhận
định và lập luận nếu không thấu suốt về mặt ngôn
ngữ. Nếu các từ, câu và đoạn văn không rõ ràng,
không được phân tích, chúng sẽ trở thành rào cản
chứ không phải là phương tiện giao tiếp. Lúc đó,
bạn sẽ chỉ đọc các từ chứ không tiếp nhận được
tri thức.
Sau đây là các quy tắc 6 và 7. Quy tắc 6:
ĐÁNH DẤU NHỮNG CÂU QUAN TRỌNG
NHẤT TRONG MỘT CUỐN SÁCH VÀ TÌM
RA CÁC NHẬN ĐỊNH ẨN CHỨA TRONG
ĐÓ. Quy tắc 7: TÌM RA CÁC LẬP LUẬN CƠ
BẢN TRONG MỘT CUỐN SÁCH DỰA
TRÊN MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC CÂU.
Tìm ra các câu then chốt
Làm cách nào để xác định vị trí của những câu
quan trọng nhất và phân tích chúng để tìm ra một
hay nhiều nhận định ẩn chứa trong một cuốn sách?
Mỗi cuốn sách chỉ có một vài câu then chốt,
nhưng không phải vì có câu then chốt mà bạn coi
nhẹ các câu khác. Trái lại, bạn cần phải hiểu hết
mọi câu. Tuy nhiên, giống như các từ, hầu hết các
câu đều khá dễ hiểu nên bạn có thể đọc tương đối
nhanh. Độc giả thường cho rằng những câu quan
trọng là những câu đòi hỏi phải nỗ lực mới phân
tích được vì nhìn qua chúng có vẻ không dễ hiểu.
Vì thế bạn phải đọc các câu đó chậm hơn hẳn và
cẩn thận so với các câu còn lại. Đối với tác giả,
chưa chắc đã là những câu thật sự quan trọng nhất
nhưng khả năng đó hoàn toàn có thể xảy ra, vì
những ý quan trọng nhất mà tác giả muốn bày tỏ
chắc hẳn sẽ là những phần mà bạn thấy khó hiểu
nhất.
Những câu quan trọng với tác giả là những
câu diễn tả những đánh giá đóng vai trò cơ sở cho
toàn bộ lập luận của ông ta. Một cuốn sách không
chỉ đơn giản nêu lên một hay một chuỗi lập luận.
Có thể tác giả sẽ giải thích nguồn gốc quan điểm
của mình, bàn luận về những từ mình dùng, nhận
xét về tác phẩm của các tác giả khác, hoặc tranh
luận nhiều vấn đề khác… Nhưng trọng tâm mà
tác giả muốn đề cấp đến nằm trong những
khẳng định và phủ định lớn, cũng như các lý
do tác giả nêu lên để giải thích cho những
nhận định đó. Vì vậy, để nắm được ý chính, bạn
phải xem xét các câu quan trọng nhất như thể
chúng được đắp nổi trên trang sách.
Một số tác giả thường giúp độc giả nhận biết
những câu quan trọng bằng cách gạch chân các
câu đó, hoặc nói rõ cho độc giả biết đây là một ý
quan trọng, hay sử dụng dấu hiệu trên bản in khiến
cho những câu hướng dẫn nổi bật hẳn lên. Tuy
nhiên, cách này sẽ không hiệu quả nếu bạn không
tỉnh táo khi đọc sách. Chúng tôi đã từng gặp nhiều
độc giả và học viên hoàn toàn không chú ý đến
những dấu hiệu hiển nhiên đó. Họ thích đọc tiếp
hơn là dừng lại cẩn thận xem xét những câu quan
trọng.
Trong một số cuốn sách, những nhận định chủ
đạo được trình bày thành câu có vị trí đặc biệt và
kiểu chữ nổi bật. Tiêu biểu là cách thể hiện của
nhà toán học Euclid. Ông không chỉ nêu những