Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.18 MB, 100 trang )
5
dược k i ể m toán độc lập và khía cạnh sở hữu cá nhân của thông tin kế toán
quản trị, nên việc lập những báo cáo này không cần thiết phải tuân theo
những nguyên tắc k ế toán nhất định. Nói cách khác, nó có tính linh hoạt, đa
dạng và không phụ thuộc vào những nguyên tắc k ế toán. Điều cơ bản của
loại báo cáo này là giúp cho nhà quản lý thấy được những gì đã, đang và sẽ
diễn ra trong hoạt động của doanh nghiệp gắn liền vối từng bộ phận, từng
chức năng nhất định.
Loại báo cáo kế toán thứ hai của doanh nghiệp là báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính là một hệ thống thông t i n được x ử lý bởi hệ thống k ế
toán tài chính, nhằm cung cấp những thông tin tài chính có ích cho các đối
tượng sử dụng để đưa ra các quyết định kinh tê '. Trong hệ thống kế toán
1
2
doanh nghiệp V i ệ t Nam, BCTC được xác định là loại báo cáo tổng hợp về
tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình và kết quả hoạt động của
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, được thể hiện thông qua một hệ
thống các chỉ tiêu có m ố i liên hệ vối nhau do Nhà nưốc qui định thống nhất
và mang tính pháp lệnh. N ó cung cấp cho người sử dụng thấy được bức
tranh toàn cảnh về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, bản chất của BCTC
còn được V i ệ n k i ể m toán viên công
chứng Hoa K ỳ ( A I C P A ) phát biểu như sau: " H ệ thống BCTC được lập
nhằm mục đích phục vụ cho việc xem xét định kỳ hoặc báo cáo về quá trình
hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu tư trong kinh doanh và những
kết quả đạt được trong thời kỳ báo cáo. Hệ thống BCTC phản ánh sự kết
hợp của những sự kiện được ghi nhận, những nguyên tắc k ế toán và những
đánh giá của cá nhân, m à trong đó những đánh giá và nguyên tắc kế toán
được áp dụng có ảnh hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện. Những
đánh giá đúng đắn tùy thuộc vào khả năng và sự trung thực của người lập
báo cáo, đồng thời phụ thuộc vào sự tuân thủ đối vối những nguyên tắc k ế
TS. Đoàn Ngọc Quế, TS. V õ Văn Nhị, Th.s Lý thị Bích Châu, Hưống dẫn lập-đọc-phân tích báo cáo tài
chính và báo cáo kế toán quản trị, N X B Thống kẽ, 2001, tr. 11
<2)
e
toán đã được chấp nhận rộng rãi". Hai tác giả Bryan Carsberg và Susan Dev
cũng đã nêu lên bản chất của BCTC như sau: H ệ thống BCTC được thiết k ế
để trình bày những kết quả xảy ra trong quá k h ứ và là kênh truyền đạt thông
tin chính của những hoạt động quản lý với thếgiới bên ngoài. BCTC được
yêu cẩu phải tuân thủ luật công ty, quy chế của thị trường chứng khoán của
,
công ty được niêm yết. Vì thế việc kiểm toán BCTC nên được yêu cọu bởi
luật pháp, bởi vì nhà quản lý có thể là một nhóm khác biệt với những cổ
đông, những nguôi đã giao phó tài sản của họ cho nhà quản lý. BCTC được
yêu cọu phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán bên ngoài, nên khả năng
có thể thẩm tra là một thuộc tính chủ yế của những con số xuất hiện trên
u
BCTC.
T ó m lại, bản chất của BCTC là phản ánh các sự kiện xảy ra trong quá
khứ trôn cơ sở các nguyên tắc kế
toán đã được thừa nhận và những đánh giá
của cá nhân, nhằm cung cấp thông tin tài chính cho các đối tượng có nhu
cẩu sử dụng thông tin của doanh nghiệp. M ộ t mặt do thông tin trình bày
trên BCTC chủ yếu chịu sự chi phối bởi những đánh giá của người lập
BCTC, mặt khác do có sự tách biệt giữa sự sở hữu và khả năng kiểm soát
của những người cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nên BCTC được lập đòi
hỏi phải dược k i ể m toán bởi một tổ chức kiểm toán độc lập. Khác với báo
cáo kê toán quản trị, mục tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin
hữu ích về tình hình tài chính (tài sản và nguồn vốn), kế quả hoạt động tài
t
chính cũng như những thay đổi về tình hình tài chính của một doanh nghiệp
cho nhiều đối tượng sử dụng trong việc ra các quyết định kinh doanh. BCTC
phục vụ cho yêu cọu quản lý của doanh nghiệp cũng như của các đối tượng
ở bên ngoài, nhưng chủ yế là phục vụ cho các đối tượng ở bên ngoài.
u
BCTC là bắt buộc, được nhà nước quy định thống nhất về danh mục các báo
cáo, biểu mẫu và hệ thống các chỉ tiêu, phương pháp lập, nơi gửi báo cáo và
thời gian gửi báo cáo (quý, năm).
7
2. Mục đích và ý nghĩa của các báo cáo tài chính d o a n h nghiệp
Hệ thống BCTC có một ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối v ớ i
doanh nghiệp m à còn đối với những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như
các cơ quan quản lý N h à nước, các nhà đầu tư, các chủ nợ, nhà quản lý,
k i ể m toán viên độc lập và các đối tượng khác có liên quan. BCTC sử dụng ở
Việt N a m về cơ bản có sằ tương đổng với chuẩn mằc k ế toán quốc t ế
(IASC), nhằm tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình
tài sản, nguồn vốn, công nợ; tình hình và kết quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh: những biến động về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một
kỳ kế toán.
Bên cạnh đó, BCTC cũng cung cấp những thông tin cần thiết nhất phục
vụ cho các đối tượng khác nhau, cụ thể là:
- Đối với Nhà nước, BCTC cung cấp thông tin cẩn thiết giúp cho việc
thằc hiện chức năng quản lý vĩ m ô của Nhà nước đối v ớ i nền kinh tế, giúp
cho các cơ quan tài chính Nhà nước thằc hiện việc k i ế m tra định kỳ hoặc
đột xuất đối với hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời làm cơ sở cho việc
tính thuế và các khoản nộp khấc của doanh nghiệp đối với ngân sách N h à
nước. BCTC giúp nhà nước có cái nhìn cụ thể, chính xác về doanh nghiệp
để từ dó có định hướng phát triển kinh tế-xã hội phù hợp, tạo điều kiện phát
triển cho doanh nghiệp. M ặ t khác, BCTC giúp nhà nước k i ể m tra doanh
nghiệp để phát hiện ra những sai sót, gian lận kịp thời, buộc doanh nghiệp
phải tuân thủ luật pháp và thằc hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế của mình.
- Dối với nhà quản lý doanh nghiệp, BCTC có ý nghĩa quyết định bởi
các nhà quản lý thường cạnh tranh với nhau để tìm k i ế m nguồn vốn, và cố
gắng thuyết phục với các nhà đẩu tư và các chủ nợ rằng họ sẽ đem lại mức
lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Đ ể thằc hiện được điều này, các
nhà quản lý phải công bố công khai các thông t i n trên BCTC định kỳ về
hoạt dộng của doanh nghiệp. M ộ t k h i các BCTC đã được minh bạch và
công khai , các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ có cơ h ộ i tìm k i ế m những
nguồn vốn đầu tư đảm bảo trong dài hạn, v ớ i số lượng nhiều hơn. Trong
s
điều kiện hội nhập và cạnh tranh gay gắt hiện nay, doanh nghiệp sẽ khó có
thể tồn tại và phát triển nếu không có vốn đẩu tư. Bởi vậy, BCTC có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với sự tồn vong của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà
quản lý còn sử dầng BCTC để tiến hành quản lý, điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
- Đối với các nhà đẩu tư, các chủ nợ, BCTC sẽ giúp h ọ ra các quyết
định đầu tư chính xác và có khả năng đem lại l ợ i nhuận cao. Nhìn chung
các nhà đầu tư và các chủ nợ đòi hỏi BCTC vì 2 lý do: họ cần các thông tin
tài chính để giám sát, bắt buộc các nhà quản lý phải thực hiện theo đúng
hợp đồng đã ký kết và họ cẩn các thông tin tài chính để thực hiện các quyết
định đẩu tư, cho vay của mình. Việc kiểm toán BCTC sẽ giúp cho nhà đầu
tư yên tâm hơn, không sợ các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra những thông
tin sai lệch hoặc có thể bóp m é o thông tin trong các BCTC nhằm mầc đích
tìm kiếm nguồn vốn hoạt động.
Các thông tin kinh tế, tài chính trong BCTC chủ yếu được sử dầng để
đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng tài
chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua, giúp cho việc kiểm tra,
giám sát tình hình sử dầng vốn và khả năng huy động nguồn vốn vào sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu, các số liệu trên các BCTC
là những cơ sò quan trọng để tính ra các chỉ tiêu kinh tế khác, nhằm đánh
giá hiệu quả sử dầng vốn, hiệu quả của các quá trình sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp.
Ngoài ra, những thông tin của BCTC còn là những căn cứ quan trọng
để phân tích, nghiên cứu, phát hiện những khả năng tiềm tàng; là những căn
cứ quan trọng cho việc đề ra các quyết định về quản lý, diều hành hoạt
động sân xuất, kinh doanh hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sở hữu,
cấc nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
9
3. Nội dung của các báo cáo tài chính doanh nghiệp
Theo Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 về Chế độ
báo cáo tài chính doanh nghiệp và Chuẩn mực k ế toán số 21 ban hành và
công bố theo Quyết định 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003, áp dụng cho
tất cả các doanh nghiệp thuộc m ọ i lĩnh vực, m ọ i thành phần kinh tế trong cả
nước, hệ thống BCTC của Việt Nam bao gồm 4 biểu mẫu báo cáo bổt buộc:
- Bàng cân đối kế toán
M ẫ u số B 01 -DN
- Kết quả hoạt động kinh doanh
M ẫ u số B 02-DN
- Lưu chuyển tiền tệ
M ẫ u số B 03-DN
- Thuyết m i n h BCTC
M ẫ u số B 09-DN
- Trong đó :
Bảng cân đối kế toán là BCTC có các đặc điểm: ( i ) phản ánh
một cách tổng quát toàn bộ tài sản của doanh nghiệp theo một hệ
thống các chỉ tiêu được quy định thống nhất; (li) phản ánh tình hình
tài sản theo 2 cách phân loại: kết cấu của tài sân và nguồn hình thành
tài sản; (iii) phản ánh tài sản dưởi hình thái giá trị (dùng thước đo
bằng tiền); phản ánh tình hình tài sản tại một thời điểm được quy định
(cuối tháng, cuối quý, cuối năm). Bảng cân đối k ế toán phải được lập
theo mẫu quy định, phản ánh trung thực tình hình tài sản của doanh
nghiệp và phải nộp cho các cơ quan có thẩm quyền đúng thòi hạn quy
định.
Báo cáo kết quả kinh doanh là BCTC tổng hợp, phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của
doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh thông thường và các
hoạt động khác, tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, về thuế và
các khoản phải nộp khác.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo k ế toán tổng hợp tình
hình lưu chuyển trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Báo cáo
này cho biết dòng tiền tăng lên (đi vào) và giảm xuống (đi ra) liên
quan đến các hoạt động khác nhau cũng như các nhân tố tác động đến
lũ
sự tăng, giảm của dòng tiền lưu chuyển. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có
tác dụng quan trọng trong việc phân tích và đánh giá khả năng thanh
toán, đầu tư, tạo ra tiền cũng như việc giải quyết các m ố i quan hệ tài
chính trong doanh nghiệp.
Thuyết minh BCTC
là một bộ phận hợp thành hệ thống BCTC
của doanh nghiệp được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình
hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của doanh
nghiệp trong kỳ báo cáo m à các BCTC khác không thể trình bày rõ
ràng và chi tiết được.
Số liệu trên báo cáo tài chính được trình bày có tính chất so sánh: có
số liệu 2 năm đối vừi bảng cân đối kế toán, đối vừi báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì chỉ có số liệu để so sánh
giữa kỳ này vừi kỳ trưừc và số lũy k ế từ đầu năm.
Ngoài ra, để phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính, yêu cầu chỉ
đạo điều hành, các ngành, các Tổng công ty, các tập đoàn sản xuất, liên
hiệp các xí nghiệp, các công ty liên doanh... có thể quy định thêm các báo
cáo chi tiết khác, có tính chất hưừng dẫn như sau:
Báo cáo giá thành sản phẩm, dịch vụ
Báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh
Báo cáo chi tiết chi phí sản xuất
Báo cáo chi tiết chi phí bán hàng
Báo cáo chi tiết chi phí quản lý doanh nghiệp
Báo cáo chi tiết công n ợ
Trong quá trình áp dụng, nếu thấy cần thiết, doanh nghiệp có thể bổ
sung, sửa đổi hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp vừi đặc điểm hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng phải được Bộ Tài chính chấp
thuận bằng văn bản.
Đối chiếu với hình thức và nội dung BCTC
của Hoa Kỳ ta thấy: ở Hoa
Kỳ không có bất kỳ yêu cầu về pháp lý nào liên quan từi n ộ i dung và hình
thức cùa các BCTC của công ty ngoại trừ các công ty cổ phẩn và m ộ t số
li
ngành công nghiệp được quy định. Chúng thường được soạn thảo và trình
bày dựa trên các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận (GAPP) vốn đã
được phát triển qua nhiều năm. Ngoài rạ, ủy ban giao dịch chứng khoán
(SÉC) đã thiết lập những quy định bổ sung đối vẫi hình thức và n ộ i dung
các BCTC của các công ty cổ phần' '.
3
Đối chiếu với hình thức và nội dung của các BCTC
của Liên minh
Châu Âu (EU), thì theo hưẫng dẫn của k h ố i EU, yêu cẩu BCTC phải bao
gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và thuyết minh BCTC. Hưẫng
dẫn cũng cung cấp những hình thức tùy chọn về b ố cục của bảng cân đối
tài sản và báo cáo thu nhập. Hình thức lựa chọn phải được thông qua chi tiết
liên quan về vấn để trình bày như: thứ tự các khoản mục, danh mục và thuật
ngữ. Có một số yêu cấu về trì bày thông t i n được giảm bẫt đối vẫi các
nh
doanh nghiệp vừa và nhỏ .
(4>
T ó m l ạ i , có thể có những quy định khác nhau về báo cáo tài chính
doanh nghiệp nhưng nhìn chung, các BCTC doanh nghiệp phải cung cấp
một cái nhìn trung thực và hợp lý về tài sản, công nợ, tình hình tài chính và
kết quả kinh doanh của công ty.
li, CÔNG KHAI VÀ MINH BẠCH CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1. Sụ cần thiết phải công khai và minh bạch các báo cáo tài chính
doanh nghiệp
Xã hội càng phát triển thì nhu cẩu thông tin càng trở nên đa dạng và
bức thiết. Hiện nay thông tin được xem như là một yếu tố trực tiếp của quá
trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, các BCTC được soạn
thảo và trình bày nhằm đáp ứng nhu cầu về thông tin khác nhau của người
'" v à
"I s. Đoàn Ngọc Quí, TS. V ô Vãn Nhị, Th.s Lý thị Bích Châu, Hưẫng dán lập-đoc-phân tích báo
cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị, N X B Thống kê, 2001, tr. 42,43
141
12
sử dụng. Các BCTC phải đưa ra một bức tranh rõ ràng, hiện thực về kết quả
hoạt động và tình hình tài chính của công ty thực hiện bản báo cáo. Việc
quan trọng là cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, những người này được
xem là đối tượng chủ yếu của BCTC. Quan điịm này đặc biệt đúng v ớ i
những quốc gia có thị trường chứng khoán rộng lớn, coi trọng việc nàng cao
khả nàng tài chính của doanh nghiệp, lợi ích của các nhà đầu tư hoặc nhà
đầu tư tiềm năng là quan trọng nhất. Do khuynh hướng của sự hòa hợp quốc
tế, được thúc đẩy bởi các nhân tố của nền kinh tế vĩ m ô , như là sự xuất hiện
của thị trường chung Châu Âu, sự toàn cầu hóa của việc mua bán chứng
khoán và sự gia tăng về quy m ô của thị trường chứng khoán trên toàn t h ế
giới, yêu cầu về vấn đề công khai và minh bạch các BCTC của doanh
nghiệp ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao g i ờ hết. Điều này có lợi không
chỉ riêng cho doanh nghiệp, cho cấc nhà đầu tư m à còn có lợi cho sự phát
triịn của quốc gia, của thế giới, phù hợp vói xu thế phát triịn của thời đại
mới.
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới liên tục biến đổi, tình
hình chính trị ngày càng phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới xu hướng phát
triịn kinh tế-xã hội. Thêm vào đó, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các
công ty đị thu hút vốn đầu tư dã gây ra không í khó khăn cũng như rủi ro
t
cho các nhà đầu tư trong việc lựa chọn. Chính vì vậy, việc công khai và
minh bạch các BCTC của các công ty tham gia thị trường là rất cần thiết
cho một thị trường hoạt động trật tự và có hiệu quả, đảm bảo môi trường
kinh doanh an toàn cho các nhà đẩu tư. Các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ
luôn luôn cân nhắc giữa lợi ích cận biên và chi phí cận biên của việc công
bố thông t i n và đôi k h i kết quả cuối cùng không phải là cái m à các đối
tượng trên thị trường thực sự cần đến.
Ngay từ những năm 80 của thế kỷ trước, do x u hướng tự do hóa thị
trường t i chính và thị trường vốn, các thị trường tài chính ngày càng trở
à
nên bất ổn khiến việc có thêm thông tin cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo
sự ổn định về tài chính. Đ ế n thập niên 90, k h i x u hướng tự đo hóa thị trường