Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.18 MB, 100 trang )
12
sử dụng. Các BCTC phải đưa ra một bức tranh rõ ràng, hiện thực về kết quả
hoạt động và tình hình tài chính của công ty thực hiện bản báo cáo. Việc
quan trọng là cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, những người này được
xem là đối tượng chủ yếu của BCTC. Quan điịm này đặc biệt đúng v ớ i
những quốc gia có thị trường chứng khoán rộng lớn, coi trọng việc nàng cao
khả nàng tài chính của doanh nghiệp, lợi ích của các nhà đầu tư hoặc nhà
đầu tư tiềm năng là quan trọng nhất. Do khuynh hướng của sự hòa hợp quốc
tế, được thúc đẩy bởi các nhân tố của nền kinh tế vĩ m ô , như là sự xuất hiện
của thị trường chung Châu Âu, sự toàn cầu hóa của việc mua bán chứng
khoán và sự gia tăng về quy m ô của thị trường chứng khoán trên toàn t h ế
giới, yêu cầu về vấn đề công khai và minh bạch các BCTC của doanh
nghiệp ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao g i ờ hết. Điều này có lợi không
chỉ riêng cho doanh nghiệp, cho cấc nhà đầu tư m à còn có lợi cho sự phát
triịn của quốc gia, của thế giới, phù hợp vói xu thế phát triịn của thời đại
mới.
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới liên tục biến đổi, tình
hình chính trị ngày càng phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới xu hướng phát
triịn kinh tế-xã hội. Thêm vào đó, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các
công ty đị thu hút vốn đầu tư dã gây ra không í khó khăn cũng như rủi ro
t
cho các nhà đầu tư trong việc lựa chọn. Chính vì vậy, việc công khai và
minh bạch các BCTC của các công ty tham gia thị trường là rất cần thiết
cho một thị trường hoạt động trật tự và có hiệu quả, đảm bảo môi trường
kinh doanh an toàn cho các nhà đẩu tư. Các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ
luôn luôn cân nhắc giữa lợi ích cận biên và chi phí cận biên của việc công
bố thông t i n và đôi k h i kết quả cuối cùng không phải là cái m à các đối
tượng trên thị trường thực sự cần đến.
Ngay từ những năm 80 của thế kỷ trước, do x u hướng tự do hóa thị
trường t i chính và thị trường vốn, các thị trường tài chính ngày càng trở
à
nên bất ổn khiến việc có thêm thông tin cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo
sự ổn định về tài chính. Đ ế n thập niên 90, k h i x u hướng tự đo hóa thị trường
13
tài chính và vốn dâng cao, gây sức ép đòi h ỏ i phải cung cấp thông tin hữu
ích trong cả k h u vực tài chính, lãn khu vực tư nhân; các yêu cầu tối thiểu về
công bố thông tin giờ đây sẽ là đánh giá chất lượng và dung lượng thông tin
cần cung cấp cho các đối tượng tham gia thị trường và công chúng nói
chung. M ộ t k h i thông t i n trở thành yếu t ố quan trọng giúp ổn định thị
trường thì hiển nhiên chất lượng thông tin sẽ được ưu tiên cao độ. Bởi vẩy,
để tự tạo ra sức cạnh tranh cho chính mình trong việc thu hút vốn đẩu tư,
các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện tốt việc cải tiến các hệ thống thông tin
nội bộ cùa mình để tạo uy tín là tổ chức cung cấp thông tin có chất lượng.
2. Nội dung của việc cóng khai và minh bạch các báo cáo tài chính
doanh nghiệp
2.1. Thế nào là công khai và minh bạch các báo cáo tài chính doanh
nghiệp
Như trên đã đề cẩp đế sự cẩn thiết của công khai và minh bạch các
n
BCTC, vẩy thế nào là sự công khai và tính minh bạch? Trước hết, sự công
khai thể hiện ở việc thông tin được cung cấp một cách rõ ràng, không mẩp
mờ, che giấu đối với các đối tượng khác nhau. Tính minh bạch là nguyên
tắc tạo lẩp một môi trường, trong đó các thông tin về thực trạng hiện tồn, về
các quyếl định và các hoạt động đều dễ dàng tiếp cẩn, đều có thể thấy được
và dễ hiểu đối v ớ i tất cả các đối tượng tham gia thị trường . Tính minh
151
r
bạch là (tiều kiện cần để duy t ì tính trách nhiệm giữa ba nhóm thành viên
thị trường chính: những người đi vay và những người cho vay, các tổ chức
phát hành và nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tài
chính quốc tế
.
Mục đích của BCTC là cung cấp thông t i n về tình hình tài chính, về
kết quả hoạt động và về những thay đổi tài chính của một tổ chức kinh
Hennic Van Greuning, Marius Koen, Các chuẩn mực kế toán quốc tế- tài liệu hướng dần thực hành.
N X B Chính t r ị quốc gia, 2000. tr.6
151
14
doanh. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay, như đã phân tích ờ trên
việc công khai và minh bạch các BCTC là điểu hết sức cẩn thiết đối với các
doanh nghiệp. Trước hết, cõng khai BCTC
có nghĩa là các BCTC sẽ được
công bố rộng rãi, không che giấu, m ọ i đối tượng trên thị trường đểu có thế
tiếp cận và tìm hiểu. Còntínhminh bạch của BCTC
được thể hiện thông
qua việc công bố đầy đụ và có thuyết minh rõ ràng về những thông tin hữu
ích, cẩn thiết cho việc ra quyết định kinh tế cụa nhiều đối tượng sử dụng' .
61
Tuy càng có nhiều thông tin càng tốt nhưng việc cung cấp thông t i n đòi hỏi
phải có ngân sách. Vì vậy, lợi ích cuối cùng cụa việc tạo ra tính minh bạch
cao hon nữa cần phải được tính toán kỹ lưỡng. Việc công khai và minh bạch
các BCTC hiện nay đã được coi là một yêu cầu đối với doanh nghiệp trong
tiến trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, điều đó còn là một
phươn" tiện để duy t ì tính trách nhiệm, kỷ luật nội bộ và nâng cao chất
r
lượng quản lý doanh nghiệp. Mặt khác, nó cũng nâng cao chất lượng cụa
việc ra quyết định cụa các nhà quản trị doanh nghiệp. Các nhà đầu tư, các
cổ đông, người lao động sẽ dễ dàng giám sát việc quản lý và hoạt động cụa
công ty. Chi phí giám sát sẽ giảm nếu các hành động và quyết định đều rõ
ràng và dễ hiểu. Những quyết định kém chất lượng sẽ không được bỏ qua và
phải được giải thích. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư sẽ có thể phần nào biết
được hoặc dự đoán được các quyết định phát triển cụa doanh nghiệp trong
tương lai.
Việc áp dụng các tiêu chuẩn k ế toán quốc tế là một biện pháp cẩn
thiết để lạo tính minh bạch và giải thích đúng đắn các BCTC. Theo các
chuẩn mực quốc tế, các BCTC thường được lập v ớ i giả định rằng các doanh
nghiệp sẽ tiếp tục vận hành như một thực thể đang hoạt động và những sự
kiện được phản ánh trên cơ sở tích lũy nghĩa là ảnh hưởng cụa các hoạt
Hennic Van Greunỉng, Marius Koen, Các chuẩn mực kế toán quốc tế- tài liệu hướng dẫn thực hành,
N X B Chính trị quốc gia, 2000, tr.7
(6)
15
động giao dịch và các sự kiện khác được thừa nhận vào thời điểm chúng
diễn ra. Vì vậy, chúng được ghi lại trong các BCTC của các kỳ báo cáo.
2.2. Mục đích và yêu cẩu của việc công khai và minh bạch các báo cáo
tài chính doanh nghiệp
M ụ c đích của việc công khai và minh bạch các BCTC là cung cấp
thỏa đáng thông t i n cho các đối tượng trên thị trường. Các thông t i n này
phọi là các thông tin hữu ích cho người sử dụng, rõ ràng và dễ hiểu. Nếu
không có thông t i n toàn diện và hữu ích thì ngay cọ những người điểu hành
cũng không thể nhận biết được tình trạng tài chính thực của doanh nghiệp
mình, những nhân vật quan trọng khác cũng có thể không hiểu được và điều
này có thể làm cho các kỷ luật thị trường không phát huy được tác dụng,
việc công khai và minh bạch các BCTC sẽ trở thành vô ích và chỉ mang vỏ
hình thức m à thôi. Bởi vậy, tính chất thông t i n là vô cùng quan trọng, nó
đánh giá hiệu quọ của việc công khai và m i n h bạch các BCTC. Các đặc
điểm định tính là những yếu tố bổ trợ để thông tin cung cấp trong các BCTC
trở nên hữu ích cho người sử dụng. Việc áp dụng các đặc điểm định tính cơ
bọn và các chuẩn mực k ế toán phù hợp thường mang lại các BCTC trung
thực và được trình bày rõ ràng.
Các đặc điểm định tính cơ bọn bao gồm:
Tính thích hợp: Thông t i n là thích hợp k h i nó ọnh hưởng tới
các quyết định kinh tế của người sử dụng qua việc giúp những người
này đánh giá các sự kiện đã đang và sẽ xọy ra hoặc giúp xác nhận
hoặc điều chỉnh những đánh giá trước đây của họ. Tính thích hợp của
thông t i n chịu sự tác động của chính bọn chất và tính trọng yếu của
thông tin (tính trọng yếu luôn là ngưỡng cửa để đi tới tính thích hợp).
Các thông t i n được coi là trọng yếu nếu bỏ sót hoặc xác định sai
nhũng thông t i n đó có thể ọnh hưởng nghiêm trọng tới quyết định
kinh tế của người sử dụng thông tin. M ứ c độ trọng yếu lại tuy thuộc
vào mức độ của khoọn mục hoặc mức độ sai l ầ m m à trong hoàn cọnh
lõ
cá biệt nào đó đã bị bỏ sót hoặc xác định sai. M ặ t khác, thông tin quá
tải có thể làm nhiễu thông tin, gây khó khăn cho việc tách lọc những
chi tiết thích hợp cũng như cho việc giải thích.
Độ tin cậy: Đ ể có ích thông tin phải đáng t i n cậy. Thông tin có
chất lượng, đáng tin cậy k h i chúng không mắc những sai lầm nghiêm
trọng hoặc phản ánh m é o m ó một cách cố ý và có thể phạ thuộc vào
người sử dạng k h i sử dạng các thông tin đó cho một mạc đích khách
quan hợp lý. Các thông tin có thể thích hợp nhưng lại không đáng tin
cậy về bản chất hoặc cách trình bày, bởi vì các thông tin này có thể có
nhũng sai l ầ m m à nguôi ta chưa phát hiện ra. T ó m l ạ i , thông tin
không được có l ỗ i trọng yếu và phiến diện. Những khía cạnh chủ yếu
cùa độ t i n cậy là trình bày trung thực, chú trọng nội dung hơn là hình
thức, trung lập, thận trọng và hoàn chỉnh.
Tính so sánh được: Thông tin trong các BCTC cần được trình
bày một cách thống nhất giữa các thời kỳ để giúp cho người sử dạng
có thể xác định xu hướng biến động về tình hình tài chính và kinh
doanh của doanh nghiệp. Người sử dạng cũng phải so sánh được các
BCTC của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, để đánh giá m ố i
lương quan về tình hình tài chính, kinh doanh và những thay đổi về
lình hình tài chính giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác định, tính
toán và trình bày các ảnh hưởng tài chính của giao dịch và các sự
kiện, phải được tiến hành một cách nhất quán giữa kỳ này với các kỳ
khác trong phạm v i một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với
nhau, giúp cho người sử dạng so sánh các thông t i n trong các BCTC
của kỳ này với kỳ trước và giữa các doanh nghiệp với nhau.
Tính dễ hiểu: Thông tin phải giúp cho người sử dạng hiểu được
dễ dàng, những người này thường là những người có kiến thức khá tốt
về kinh doanh, kinh tế và kế toán và sẵn sàng nghiên cứu thông t i n
mội cách khá nghiêm túc.
17
Quá trình tạo thông tin hữu ích gồm một loạt các yếu tố quyết định có
thể làm hạn chế k h ố i lượng thông tin được cung cấp. Chúng gồm có:
Hạn chế về thời gian: Chậm trề trong việc báo cáo có thể tăng
cường độ t i n cậy nhưng cũng có thể làm mất đi tính thích hợp.
Lợi ích so với chi phí: L ợ i ích do thông t i n mang lại thường là
phái lớn hơn chi phí bỏ ra để cung cấp thông t i n đó.
Cân đối các đặc điềm định tính: Đ ể đáp ứng các mục tiêu cảa
các BCTC và để chúng trở nên đầy đả trong điều kiện nhất định,
những người cung cấp thông tin phải đạt được sự cân đối hợp lý giữa
các đặc điểm định tính.
Nhà quản trị doanh nghiệp luôn là người phải cân nhắc giữa lợi ích và
chi phí cảa việc công khai và minh bạch thông tin với mục tiêu làm giảm
bớt các chi phí do những hạn chế trên mang lại.
2.3. Hạn chê của việc công khai và minh bạch các báo cáo tài chính
doanh nghiệp
Mặc dù việc công khai và minh bạch các BCTC là cẩn thiết và đem lại
lợi ích cho doanh nghiệp cũng như nhiều đối tượng tham gia trên thị trường
nhưng điều này không phải là không có những hạn chế. Sự công khai và
minh bạch các BCTC không phải là mục tiêu cảa doanh nghiệp cũng như
cảa các nhà đầu tư. Chúng được đưa ra nhằm trợ giúp cho việc nâng cao
hiệu suất kinh tế và có thể cảng cố hoạt động cảa thị trường tài chính, nâng
cao chất lượng ra quyết định và phẩn nào quản lý r ả i ro đầu tư. Tuy nhiên,
công khai và m i n h bạch không có nghĩa là không có r ả i ro hoặc ngàn chặn
được rải ro. Sự công khai và minh bạch chỉ giúp cho các đối tượng tham gia
thị trường dặc biệt là các nhà đầu tư dự đoán và đánh giá được những thông
tin xấu và làm giảm bớt những rải ro. Mặt khác, cần lưu ý là có sự khác biệt
giữa tính minh bạch và tính bảo mật. Việc đưa ra thông t i n độc quyền có thể
mang lại ưu thế không bình đẳng cho các đối thả cạnh tianh,_dũ_iây ngăn
1 > H Ì/ V I Ệ N
cản việc công b ố đầy đả thông t i n cảa các đôi tượng tham .gia, trên thị
N^OAI THUONC
1S
trường. Tương tự, các cơ quan giám sát thường có được thông tin bí mật của
các tổ chức k i n h doanh. M ộ t k h i những thông tin như vậy bị công bố sẽ gây
ra những hậu quả đáng kể trên thị trường và gây tổn hại cho chính doanh
nghiệp đó. Trong những trường hợp như vậy, các doanh nghiệp có thể do d ự
khi cung cấp thông tin nhạy cảm m à không có điều kiện bảo mật cho khách
hàng.
Khi đề cập đến tính bảo mật, chúng ta nên xem xét về mức độ công
khai trong các BCTC. M ố i quan hệ giữa doanh nghiệp và những nhà cung
ứng vốn có ảnh hưỳng đến việc soạn thảo, trình bày và công bố thông t i n
trên BCTC của doanh nghiệp. Chẳng hạn như ỏ Hoa Kỳ và Anh, k h i cổ
đông là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu của doanh nghiệp, thì kế toán có
định huống về thị trường vốn mạnh mẽ, tức là hướng về lợi ích của các nhà
đầu tư; nhưng k h i ngân hàng giữ vai trò thống trị trong việc cung cấp vốn
cho doanh nghiệp, thì sự bảo vệ cho doanh nghiệp lại được nhấn mạnh,
chẳng hạn như ỳ Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản trước đây. Nếu chính phủ cung
cấp hầu hết nguồn tài chính cho doanh nghiệp, thì nhu cầu thông t i n của
chính phủ sẽ chiếm ưu thế. Mức độ công bố thông tin trên BCTC có khuynh
hướng cao hơn, k h i có một số lượng lớn các nhà cung ứng vốn với nhu cầu
thông tin rất đa dạng. Mức độ công bố thấp hơn khi doanh nghiệp dựa vào
một sô í nguồn tài chính với nhu cầu thông tin giống nhau.
t
Tóm lại, nếu nhìn một cách tổng quát, việc công khai và minh bạch
các BCTC, công bố đầy đủ thông tin góp phần tạo ra một chế độ minh bạch,
chế độ này sẽ có lợi cho tất cả các đối tượng tham gia trên thị trường ngay
cả nếu trước mắt, việc chuyển sang một chế độ như vậy sẽ gây bất tiện cho
bản thân doanh nghiệp. Vì vậy, không có gì lạ k h i một doanh nghiệp không
tuân thủ các yêu cầu công bố thông tin cụ thể thì Các chuẩn mực K ế toán
quốc tế thường yêu cẩu phải công bố dầy đủ sự việc và lý do không tuân
thủ.
19
3. N h u cầu t h ự c tiễn về v ấ n đề công k h a i và m i n h bạch các báo cáo tài
chính đật r a đ ố i vói các doanh nghiệp V i ệ t N a m hiện nay
Đ ố i với thực tiễn Việt Nam hiện nay, vấn để cóng khai và minh bạch
các BCTC doanh nghiệp đang thực sự trở thành nhu cầu cấp thiết hơn bao
giờ hết. Vấn đề này đang rất cần đến sự lưu tâm của doanh nghiệp và Chính
phủ để có thể khắc phục những yếu kém và tộn tại hiện có. Điều đó sẽ tạo
điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp và thị trường vốn của Việt Nam.
Ở một nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam, nhu cầu về vốn
luôn canh cánh đối với các doanh nghiệp. Thị trường vốn Việt Nam nếu so
sánh với những nước có thị trường vốn phát triển mạnh như Mỹ, Anh, Đức,
nhiều quốc gia và vùng lãnh thộ trong khu vực châu Á như Hồng Kông,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore.. .thì m ớ i ở mức độ phát triển sơ khai và
có quy m ô khá nhỏ. Nguồn vốn của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là
huy động từ vốn tự có, từ sự hỗ trợ của nhà nước hoặc từ nguồn vốn tín
đụng ngân hàng và một số í từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. R õ ràng là
t
trong thực tế hiện nay, các doanh nghiệp cần phải chú trọng hơn nữa việc
thu húi nguồn vốn từ phía các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Các nhà đầu tư chỉ thực sự mong muốn đầu tư k h i đồng vốn m à họ đầu tư
có thể đem lại lợi nhuận và r ủ i ro ồ mức độ chấp nhận được, hay nói cách
khác là quyền l ợ i của họ được đảm bảo. V ậ y quyền l ợ i của họ được đảm
bảo khi nào? Câu trả l ờ i là k h i nhà dầu tu hiểu rõ thông tin về công ty và hệ
thống pháp luật, các cơ chế quản lý nội bộ công ty có khả năng ngăn chặn
được khả năng trục lợi của người điều hành và các cộ đông chi phối. Công
khai và minh bạch thông tin là đòi hỏi đẩu tiên để nhà đầu tư có thể đánh
giá được hoạt động của doanh nghiệp, v ề phía người điều hành và cộ đông
chi phối, tình trạng m ù mờ về thông tin và yếu kém của hệ thống pháp luật
làm cho các tộ chức, nhà đầu tư bên ngoài không thể giám sát được hoạt
động công ty là điều kiện lý tưởng để tận dụng quyền l ợ i cá nhân trong
kiểm soái công ty. Đ ể hạn chế hành động tư l ợ i của người điều hành và cộ
20
đông chi phối, các thông tin về thu nhập và các giao dịch liên quan tới l ợ i
ích cá nhân của họ đều cẩn được công khai. Việc công khai và minh bạch
các BCTC do đó trở thành yếu tố vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp
trong vấn đề thu hút đẩu tư.
Mặt khác, việc công khai và minh bạch các BCTC của doanh nghiệp
mặt khấc cũng tạo điểu kiện cho thị trường chứng khoán ( T T C K ) phát triển.
Thị trường chứng khoán là kênh huy đững vốn phổ biến và ưu việt. T u y
nhiên, ở Việt Nam hiện nay lại đang trong cảnh "chợ chiều". M ữ t trong
những nguyên nhân chính gây cản trở đối với sự phát triển của thị trường
chứng khoán Việt Nam là các doanh nghiệp "ngại" phải cung cấp thông t i n
kinh doanh k h i niêm yết. Mặc dù thị trường chứng khoán đã hoạt đững
được gần 5 năm và nhiều công ty niêm yết là công ty đại chúng, nhưng lãnh
đạo các công ty này vẫn chỉ chú trọng vào hoạt đững kinh doanh, chứ chưa
thật sự coi trọng việc thiết lập m ố i quan hệ xã hữi, đặc biệt là với cổ đôngngười chủ thực sự của mình. Điều đó đã khiến cho chất lượng công b ố
thông tin của các công ty niêm yết chưa thật hoàn thiện: n ữ i dung công b ố
thông tin còn nghèo nàn, chưa cập nhật và có hệ thống; gây khó khăn cho
nhà đầu tư trong việc tiếp cận thông tin doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện
nay, việc kinh tế V i ệ t Nam đã và đang tăng trưởng mạnh khiến tình trạng
lạm phát nóng bắt đầu xuất hiện. Tiền gửi ngân hàng trở nên không còn hấp >
dẫn với đại đa số dân chúng. Chính lúc này, thị trường chứng khoán, nơi
vừa tận dụng được khả năng tâng trưởng của nền kinh tế, vừa triệt tiêu được
yếu tố lạm phát sẽ trở thành môi trường lý tưởng thay thế cho các biện pháp
đẩu tư và tiết k i ệ m truyền thống. Nền kinh tế V i ệ t N a m đang tăng tốc trên
con đường h ữ i nhập kinh tế quốc tế. Nhiều lĩnh vực hoạt đững đang rất cần
vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán Việt Nam với tham vọng trở thành
kênh dẫn vốn hiệu quả, đang rất cần có nhiều nhà đầu tư thành công để lôi
kéo và tạo sức hút mạnh mẽ đối với lượng vốn nhàn r ỗ i trong dân chúng.
Không có cách gì hữu hiệu hơn trong việc hấp dẫn các nhà đầu tư bằng việc
hạn chế được mữt phần rủi ro và gia tăng cơ h ữ i tìm k i ế m lợi nhuận cho họ.
21
Việc công khai và minh bạch báo cáo tài chính doanh nghiệp là một trong
những yêu cầu đẩu tiên đối với doanh nghiệp để thực hiện được điều đó.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã rất gần, doanh nghiệp nào
biết chú trọng xây dựng hình ảnh của mình thông qua việc cung cấp thông
tin đầy đủ và cập nhật sẽ giúp nhà đầu tư dứ tiếp cận hơn, từ đó cơ hội nhận
được sự ủng h ộ bằng hình thức góp vốn trực tiếp sẽ cao hơn. Mặt khác, k h i
hình thành một liên minh tài chính trong k h u vực Đông Á và nếu Việt Nam
muốn hội nhập thì phải khắc phục những hạn chế của mình, đó là : quy m ô
thị trường vốn còn quá nhỏ, thị trường chứng khoán m ớ i chỉ phát triển ở
mức sơ khai và còn nhiều hạn chế, chưa có một chiến lược rõ ràng về cách
thức tham gia vào liên kết tài chính k h u v ự c . Bước đầu, V i ệ t N a m cũng có
ý định đưa thị trường chứng khoán tham gia h ộ i nhập với các thị trường '
chứng khoán trong khu vực, tuy nhiên nếu doanh nghiệp muốn lên niêm yết
tại thị trường chứng khoán nước ngoài thì phải hội đủ các tiêu chuẩn niêm
yết và phải thực hiện công b ố thông tin một cách bài bản hơn so với trong
nước theo các quy định rất rõ ràng. Chính bởi vậy, doanh nghiệp càng cần
phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề công khai và minh bạch các BCTC.
Một thực tiứn đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là
phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình để tạo ra vị thế riêng
trong bối cảnh hội nhập toàn cầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việt
Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế k h u vực và thế giới.Thực tế
này mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng buộc doanh nghiệp phải đối mặt v ớ i
không í ihách thức. C ó thể nói bên cạnh một số doanh nghiệp có khả năng
t
cạnh tranh tốt, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có khả năng thâm
nhập các thị trường khu vực và quốc tế và luôn chịu sức ép mất thị trường
khi hàng rào bảo hộ thuế quan dần xóa bỏ. Ngày nay, k h i thông tin cũng trở
thành một nguồn lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì tất nhiên nâng cao
việc công khai và minh bạch các BCTC cũng chính là tạo ra l ợ i thế cạnh
tranh cho doanh nghiệp nhằm nâng cao giá trị doanh nghiệp trong con mắt
các nhà đầu tư. Việc minh bạch và công khai thông t i n cũng buộc các nhà
22
quản trị doanh nghiệp phải thận trọng hơn trong quá trình ra quyết định,
góp phân nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp, từ đó đẩy mạnh hoạt
động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, điều đó cũng góp phần lành mạnh hóa
công tác quản trị doanh nghiệp, ngăn chặn phần nào sai sót hoặc hành v i lừa
đảo, gian lận, giảm bót rủi ro cho các nhà đầu tư.
T ó m lại trong x u thế của nền kình tế toàn cáu, m ọ i quốc gia đều phải
m ở cửa h ộ i nhập vồi thế giòi bên ngoài, nâng cao sức cạnh tranh là cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng và của cả nền
kinh tế nói chung. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường và trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Điều đó đồng
nghĩa vồi việc hưồng tồi một thị trường mỏ, minh bạch và có tính cạnh
tranh cao. Bởi vậy, doanh nghiệp vồi vai trò là chủ thể chính trong nền kinh
tế càng cần phải công khai thông tin, minh bạch và lành mạnh hóa chính
mình để tạo sức cạnh tranh, tránh nguy cơ bị chèn ép, thôn tính k h i h ộ i
nhập.
HI. KINH NGHIỆM THỰC TIÊN CỦA MỘT số NƯỚC TRONG KHU
Vực V À T H Ế G I Ớ I V Ề C Ô N G K H A I V À M I N H B Ạ C H B Á O C Á O TÀI
CHÍNH
Kể từ sau vụ phá sản của tập đoàn tài chính Eron, vấn đề minh bạch
trong các BCTC càng trỏ nên bức xúc hơn bao giờ hết. Ngày càng có nhiều
sự kiện cho thấy các doanh nghiệp thiếu m i n h bạch sẽ khiến cho các nhà
đầu tư thiếu t i n tưởng vào khả năng quản lý của các nhà quản trị doanh
nghiệp. Trong trường hợp xấu nhất, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt vồi
sự khủng hoảng niềm tin của các cổ đông, từ đó sẽ gây ảnh hưởng xấu tồi
thị trường vốn, tín dụng, và cổ phiếu của chính doanh nghiệp đó. R õ ràng là
giờ đây các doanh nghiệp đã hiểu rằng bên cạnh những áp lực của việc
minh bạch các BCTC còn có rất nhiều l ợ i ích cho chính bản thân doanh
nghiệp.