1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

III. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI VỀ CÔNG KHAI VÀ MINH BẠCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.18 MB, 100 trang )


23

Đối với các nhà đầu tư, m ố i quan tâm hàng đầu của họ vẫn luôn là uy

tín, danh tiếng, thị phần, mức độ trung thành của khách hàng, sờ hữu trí tuệ

của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng công khai và minh bạch về những

°I tài sản phi tài chính của mình thì giá trị của doanh nghiệp đổ trong mắt các

nhà đầu tư càng tăng lên. Mặt khác, các nhà đầu tư vẫn luôn mong muốn

doanh nghiệp tạo dằng dược hình ảnh tốt đẹp trong công chúng bằng việc

giảm thiểu những tác động tiêu cằc dối với môi trường và xã hội. Thằc tế

nhiều năm qua đã cho thấy, vị thế của một doanh nghiệp không chỉ được

khẳng định thông qua khả năng kinh doanh của doanh nghiệp đó m à giờ

đây còn phải được khẳng định thông qua hình ảnh của doanh nghiệp trong

con mắt các cổ đông, cũng như là trong con mắt của các nhân viên, các

quan chức và cả các khách hàng. Hậu quả là, bất cứ một sằ tính toán sai

lầm nào đối với những yếu tố đó đều có thể gây ra những tác động tiêu cằc,

ảnh hưởng trằc tiếp đến việc hình ảnh, danh tiếng và giá trị doanh nghiệp.

Điều m à các nhà đầu tư mong muốn đối với các thông t i n trong BCTC

doanh nghiệp vẫn luôn là: nhiều hơn và tốt hơn. Các BCTC chất lượng sẽ

giúp các nhà đầu tư đưa ra được những phân tích hiệu quả, cơ bân và chính

xác. Tuy nhiên vẫn luôn tồn tại một thằc tế là một số các doanh nghiệp đưa

ra các BCTC được thiết kế với mục đích che giấu hơn là tiết l ộ thông tin.

Các nhà đầu tư luôn muốn tránh xa những doanh nghiệp thiếu minh bạch

trong quản lý, trong các BCTC hoặc trong việc đưa ra các chiến lược phát

triển doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có những BCTC khó hiểu và phức tạp

luôn tiềmẩn nhiều r ủ i ro hơn và tạo được í niềm t i n nơi các nhà đẩu tư.

t

Ngày nay, người ta coi sằ minh bạch như là m ộ t sằ đảm bảo. Thuật ngữ

"minh bạch" được sử dụng để miêu tả một BCTC có chất lượng cao. Đ ố i với

các BCTC, minh bạch đồng nghĩa với sằ dễ hiểu, rõ ràng, trung thằc và

thẳng thắn. Chúng ta sẽ cùng xem xét hai trường hợp của công ty A và công

ty B. Giả định rằng hai công ty này có cùng thị trường vốn, cùng mức độ r ủ i

ro, có tiêm lằc tài chính như nhau, giống nhau về doanh thu, cùng tỉ lệ tăng

trưởng và có khả năng sinh l ờ i trên mỗi đổng vốn đầu tư bằng nhau. Điểm



24

khác biệt là công ty A, một công ty không có các công ty con m à chỉ có các

văn phòng đại diện hay chi nhánh ở nước ngoài, có các BCTC dễ hiểu và rõ

ràng. Còn công ty B, ngược lại, có nhiều hoạt động k i n h doanh và có các

công ty con hay chi nhánh, có những bảng BCTC hợp nhất phức tạp và khó

hiểu. L i ệ u công ty nào có giá trị cao hơn trong con mắt các nhà đầu tư?

Thốc tế cho thấy công ty A sẽ được đánh giá cao hơn. sở dĩ như vậy là bởi

vì nhũng BCTC phức tạp và không rõ ràng đã làm giảm giá trị của công ty

B. Lý do thật đơn giản: càng ít thông tin thì càng í đảm bảo đối với đồng

t

vốn đần tư.

Một k h i các BCTC không minh bạch, các nhà đầu tư sẽ không bao g i ờ

có thể chắc chắn về những r ủ i ro cốt yếu và thốc số của doanh nghiệp.

Chẳng hạn như, triển vọng tăng trưởng của một doanh nghiệp liên quan đến

việc doanh nghiệp đó được đầu tư như thế nào. Sẽ rất khó khăn cho các nhà

đẩu tư nếu họ không thể đánh giá được hoạt động đầu tư của một công ty

con vì các hoạt động này được thốc hiện thông qua một công ty mẹ. Ngoài

ra, thiếu minh bạch cũng có thể che giấu được mức độ n ợ vốn của một

doanh nghiệp. N ế u một doanh nghiệp không công khai các khoản n ợ của

mình, cấc nhà đầu tư sẽ khó có thể dố đoán được doanh nghiệp có thể rơi

vào tình trạng phá sản. Trong những vụ lừa đảo tài chính gần đây, tiêu biểu

là trường hợp của tập đoàn Eron và Tyco, đã cho thấy các nhà quản trị

doanh nghiệp đã cố tình che giấu những thông tin không tốt. Điều này dã

gây tổn hại không í cho các nhà đầu tư. Tập đoàn tài chính Eron sụp đổ đã

t

biến hàng trăm triệu đô-la của các nhà đẩu tư tan thành m â y khói.

í C ó rất nhiều lý do để giải thích cho sự thiếu chính xác của các thông

-



tin tài chính được công bố. Đ ó có thể là do có một số í nhưng đáng lo ngại

t

các công ty cố tình giành dược các nhà đầu tư bằng con đường lừa đảo, một

số ít các công ty khấc thì lại đưa ra những BCTC với thông tin sai lệch mặc

dù vẫn tuân theo những chuẩn mốc thông thường để qua mắt luật pháp. K h i

hiện nay các nhà đầu tư ngày càng có nhiều lốa chọn đối với cổ phiếu của

các công ty khác nhau sẽ gây nên sức ép khiến một số công ty muốn đưa ra



25

những thông t i n sai lệch nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư. Mặt khác, các công

ty luôn cảm thấy khó khăn k h i phải luôn tuân theo những chuẩn mực k ế

toán khó hiểu và liên tục thay đổi. Ngoài ra, trên thực tế có nhiều doanh

nghiệp đơn giản là có tình trạng kinh doanh phức tạp hơn các doanh nghiệp

khác. Ví dụ như tập đoàn General Electric, mịt tập đoàn kinh doanh khổng

lồ, với hàng chục lĩnh vực kinh doanh khác nhau, thì tất nhiên sẽ có những

BCTC phức tạp hơn nhiều so với những công ty chuyên k i n h doanh mịt lĩnh

vực, như hãng chuyên kinh doanh trên mạng như Amazon.Com. K h i mịt

doanh nghiệp gia nhập thị trường, thì m ô hình tổ chức công ty sẽ ảnh hưởng

rất nhiều đến khả năng minh bạch tài chính của công ty đó. Theo điều tra

gần đây, giá trị của những tập đoàn kiểu như GE trong con mắt các nhà đầu

tư đang dần suy giảm, đơn giản là bởi vì các nhà đầu tư không thích sự phức

tạp. So sánh với những công ty tham gia kinh doanh đơn lẻ mịt lĩnh vực thì

giá trị của những tập đoàn này đã giảm khoảng 2 0 % so với trước đây. C ó

thể giãi thích cho điều này bằng mịt vài nguyên nhân, chẳng hạn như: các

tập đoàn lớn như vậy sẽ rất khó để có thể giám sát việc kinh doanh mịt

cách chặt chẽ dẫn đến sự kém hiệu quả; hoặc kết quả kinh doanh của từng

mặt hàng là khác nhau điều đó sẽ khiến các nhà đầu tư khó có thể đánh giá

chung được tình hình kinh doanh cả các tập đoàn lớn này...

Tuy nhiên nguyên nhân của sự kém minh bạch vần không quan trọng

bằng cách thức mà doanh nghiệp cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư

thông qua các BCTC. Nếu các nhà đẩu tư không thể hiểu hoặc không t i n

tưởng vào các BCTC, thì k h i đó hoạt dịng kinh doanh của doanh nghiệp sẽ

không dược đánh giá đúng và giá trị của doanh nghiệp trong con mắt các

nhà đầu tư sẽ bị giảm xuống. V à sẽ là vô ích nếu cho dù doanh nghiệp có

các BCTC hoàn toàn minh bạch nhung các nhà đầu tư lại không thể hiểu

được chúng hoặc thiếu những kiến thức chuyên m ô n thích hợp để đánh giá.

Đ ề cập đến lợi ích của việc công khai và minh bạch các BCTC, có rất

nhiều bằng chứng cho thấy, thị trường luôn đánh giá cao những doanh

nghiệp được các nhà đầu tư và các nhà phân tích kinh tế coi trọng và t i n



26

tưởng. Những doanh nghiệp công khai và minh bạch tài chính thì luôn

giành được sự t i n tưởng của các nhà đầu tư. Những thông t i n hữu ích và

đáng tin cậy đồng nghĩa với việc í rủi ro đối với các nhà đầu tư và do đó sẽ

t

có chi phí vốn thấp hơn, và tất nhiên sẽ có giá trị cao hơn. Điểm mấu chốt ở

đây là những doanh nghiệp nào chịu chia sẻ những thông t i n hữu ích và

những chí số kinh doanh của mình thì sẽđược nhà đầu tư coi trờng hơn

những doanh nghiệp luôn muốn che giấu thông tin. Có hai nguyên nhân để

lý giải cho điều này. M ộ t là, thị trường luôn dề cao giá trị của những công

ty minh bạch và công khai thông tin vì hờ cho rằng rủi ro đầu tư vào những

doanh nghiệp đó sẽthấp hơn. Nguyên nhân thứ hai là vì theo như cách nghĩ

thông thường những công ty kinh doanh có hiệu quả luôn sẵn sàng công bố

thông tin càng sớm càng tốt, hờ không có gì để phải che giấu và luôn mong

muốn công bố rộng khắp kết quả kinh doanh của mình. Những công ty đó

hiển nhiên sẽquan tâm đến việc minh bạch và công b ố sớm thông tin, điều

đó sẽ giúp thị trường đánh giá hờ đúng hơn.

ĐỂ đảm bảo cho việc công khai và minh bạch các BCTC



doanh



nghiệp được thực hiện tốt, cần phải có sự tham gia của một vài chủ thể

khác trên thị trường. Đ ó có thể là:

Các kiểm toán viên độc lập (the External AuditorỴ. N g ư ờ i ta

vẫn thường cho rằng kiểm toán viên phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính

xác thực của các BCTC được kiểm toán. Nhưng sự thật không phải như vậy.

Các kiểm toán viên độc lập chịu trách nhiệm lập k ế hoạch và thiết k ế

chương trình cũng như phương pháp kiểm toán thích hợp đối với từng doanh

nghiệp với mục đích đưa ra những kết luận k i ể m toán hợp lý về các BCTC.

Điều này đòi h ỏ i các kiểm toán viên ngoài những kiến thức và kĩ năng

chuyên m ô n thì còn phải có kinh nghiệm. Ngoài ra, các k i ể m toán viên phải

thu thập đầy đủ bằng chứng m à đôi k h i việc này luôn bị hạn chế bởi chi phí

kiểm toán và thời gian. Do đó, việc không thể thu thập đầy đủ bằng chứng

cũng nhu những hạn chế từ phía những kiểm toán viên, những kết luận của



27

kiểm toán viên chỉ có thể là hợp lý chứ không thể là hoàn toàn chính xác và

chỉ có thể phát hiện ra những sai phạm trọng yếu.

Các ngân hàng giám sát (the Bank Supervisor) : cũng sẽ là sai

lầm nếu cho rằng ngân hàng giám sát sẽ chịu trách nhiệm phát hiện tất cả

những sai phạm hay gian lận trong các BCTC. Trên thực tế, quá trình kiểm

tra của ngân hàng cũng chịu ảnh hưộng phẩn nào từ các ý kiến của các kiểm

toán viên nội bộ và độc lập trong việc xác nhận các số liệu tài chính. Nhiệm

vụ chủ yếu của ngân hàng là đảm bảo rằng ngân hàng đã thực hiện đúng

theo các quy định và nguyên tắc, với mục tiêu đảm bảo sự ổn định tài chính,

duy t ì niềm t i n và giảm thiểu rủi ro. Chức năng của ngân hàng giám sát là

r

thu thập và phân tích thông tin về việc thực hiện hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Giống như các kiểm toán viên độc lập, ngân hàng giám sát

không thể k i ể m tra tất cả các chứng từ hay các hoạt động giao dịch của

doanh nghiệp. Ngân hàng giám sát còn chịu trách nhiệm đánh giá xem liệu

ngân hàng quản lý có thiết lập được một hệ thống k i ể m soát nội bộ hiệu quả

hay không, có phù hợp với bản chất, quy m ô và phạm v i hoạt động của

mình hay không? Hệ thống kiểm soát này phải đảm bảo rằng các BCTC

doanh nghiệp là chính xác, toàn diện và kịp thời. M ộ t hệ thống kiểm soát

nội bộ có hiệu quả phải làm giảm thiểu hoặc đảm bảo sẽ phát hiện tốt hơn

các gian lận và sai sót. Cấc nhân viên của Ngân hàng giám sát được đào tạo

để phái hiện ra những tín hiệu "đèn đỏ" có khả năng dẫn đến hành v i gian

lận. H ọ phải có khả năng xác minh được các giao dịch; phát hiện được

những sai lệch trong việc công bố thông tin ra công chúng của các doanh

nghiệp; phát hiện ra những thông tin không đúng hoặc bị bóp m é o trong các

BCTC: hiểu và có thể phát hiện được các dấu hiệu chuyển tiền; phát hiện ra

những vi phạm pháp luật; đánh giá được sự phù hợp của hệ thống kiểm soát

nội bộ trong việc ngăn ngừa gian lận. Nếu nghi ngó hoặc phát hiện ra các

hành vi gian lận, ngân hàng giám sát có trách nhiệm thông báo lên các cơ

quan chức năng có thẩm quyền và đảm bảo rằng các hành động ngăn ngừa

hoặc khấc phục hậu quả phải được tiến hành.



28

Ngân hàng quản lý (the Bank Management): Nếu như các

kiểm loàn viên lẫn các ngân hàng giám sát không chịu trách nhiệm trong

việc đám bảo tính chính xác của các BCTC và phát hiện ra các hành vi gian

lận thì trách nhiệm này thuộc về ai? Ngân hàng quản lý với hệ thống kiểm

soát nội bộ sẽ chịu trách nhiệm về việc này. Ngân hàng quản lý chịu trách

nhiệm tuân thủ các chính sách về kế toán, thiết lập và duy trì hệ thống kiểm

soát nội bộ v ớ i mục đích ghi lại, xử lý dữ liệu, tóm tắt và thông báo về hoạt

động giao dịch có đúng như trong các BCTC hay không?

Ngoài ra, những sự kiện gổn đây liên quan đến tính trung thực của các

BCTC cho thấy sự cổn thiết phải hình thành "văn hóa trách nhiệm" doanh

nghiệp. Doanh nghiệp cổn phải có trách nhiệm đối v ớ i những thông t i n

được công b ố ra công chúng, các nhà quản trị phải có trách nhiệm đối với

các cổ đông, nhân viên, và công chúng. Theo những nghiên cứu mới nhất,

việc ngăn ngừa hành v i gian lận cũng có thể được thực hiện bởi chính các

nhân viên và khách hàng của doanh nghiệp.

T ó m lại, các nhà đổu tư luôn mong muốn các BCTC được công khai

và trình bày minh bạch, đơn giản và dễ hiểu. Doanh nghiệp càng trình bày

rõ ràng về việc họ kinh doanh và sử dụng nguồn lực như thế nào thì các nhà

đổu tư càng tin tưởng vào doanh nghiệp đó. V à thậm chí nếu thông qua các

BCTC các nhà đổu tư có thể dự đoán được phổn nào chiến lược hay định

hướng kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai thì giá trị doanh nghiệp

càng tăng lên. Công khai và minh bạch luôn đổng nghĩa với việc có thể đưa

ra những phân tích rõ ràng, nhanh chóng và chính xác hem và điều đó sẽ

giúp giảm thiểu r ủ i ro đối với nhà đổu tư đặc biệt là k h i đẩu tư vào chứng

khoán. Doanh nghiệp nén nhớ rằng các nhà đổu tư không bao giờ muốn có

những điều bất ngờ đổy rủi ro về tài chính.



29



Chương li: T H Ự C TRẠNG V Ế V Â N Đ Ể C Ô N G KHAI V À MINH

BẠCH C Á C B Á O C Á O TÀI C H Í N H C Ủ A C Á C DOANH NGHIỆP

VIỆT NAM

ì. ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY



1. Khái niệm về doanh nghiệp

Nền kinh tế Việt Nam là một hệ thống lớn bao g ồ m các phẩn tử, các

tế bào tạo nên, đó là các doanh nghiệp (DN), cấc đơn vị, các tổ chức và các

cá nhãn tham gia các hoạt động kinh tế. Trong đó, các D N đóng vai trò hết

sức quan trầng, đó là nơi diễn ra quá trình tái sản xuất và tạo nên phần lớn

tổng sản phẩm quốc dân (thường chiếm từ 7 0 - 9 0 % GDP tạo ra hàng n ă m

của m ỗ i nước)' '. D ư ớ i góc nhìn quản lý kinh tế, để tính tổng giá trị sản

7



phẩm của quốc gia (GDP) có nhiều cách, nhưng cách tính phổ biến nhất

hiện nay là:" GDP là tổng các giá trị gia tăng do các D N làm ra, m à các giá

trị gia tăng tức là đầu ra trừ đi đẩu vào"''. N h ư vậy, sự phát triển của cộng

8



đồng D N (cả về số lượng và chất lượng) ở bất kỳ quốc gia nào đều ảnh

hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó.

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có không í cách hiểu khác nhau về DN.

t

Theo định nghĩa của V i ệ n thống kê & nghiên cứu kinh tế Pháp thì "DN là

một tổ chức kinh tế m à chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật

chất và dịch vụ để bán" . Còn theo Luật Doanh nghiệp n ă m 1999 thì:

(9)



"Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch

ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục

đích thực hiện các hoạt động kinh doanh"" . Các hoạt động kinh doanh ở

01



đây được hiểu là việc thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả các công đoạn



"> TS. Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS. Tô Xuân Dãn, TS. vo Trầng Lâm (Chù biên), Phát triển và quản lý các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh, N X B Khoa hầc và kỹ thuật- H à N ộ i , 2002, tr. 5

Phát triển doanh nghiệp là thúc đẩy tâng trưởng kinh tế, 04/08/2004. theo Thời báo tài chính

04/08/2004, www.mof.gov.vn

t8)



TS. Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS. Tô Xuân Dân, TS. V ũ Trầng L â m (Chù biên), Phái triển và quản lý các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh, N X B Khoa hầc và kỹ thuật- H à N ộ i , 2002, tr.6

" Theo điêu 3° Luật Doanh nghiệp năm 1999

0>



30

của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch

vụ nhằm mục đích kiếm lời. N h ư vậy, doanh nghiệp nước ta có thể hiếu là

mứt đon vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo ra sản phẩm và địch

vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hoa l ợ i

nhuận trên cơ sở tòn trọng pháp luật của Nhà nước và quyền lợi chính đáng

của người tiêu dùng.

Việt Nam có khoảng 80 triệu dân, số D N hiện đang hoạt đứng vào

khoảrm 100.000, như vậy bình quân khoảng 1.000 người dân thì m ớ i có mứt

DN. Con số này so với mặt bằng phát triển trên thế giới thì còn quá ít. Ví dụ

nước M ỹ có 250 triệu dân, họ có tới 25 triệu DN, tức là trung bình cứ 10

người dân M ỹ thì có mứt DN. Còn các nước trong k h u vực như Thái Lan,

Inđônêxia, Philippine... , bình quân cứ 40-50 người dân thì có mứt DN



(II>



.



Số lượng D N V i ệ t Nam còn quá ít, mứt trong những nguyên nhân quan

trọng là do môi trường phát triển D N vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù môi

trường đầu tư, kinh doanh đang ngày càng được cải thiện theo hướng thuận

tiện, thông thoáng hơn nhưng hành lang pháp lý liên quan đến phát triển

D N vẫn còn phức tạp. Hiện các D N ở Việt Nam hoạt đứng theo nhiều luật

khác nhau: D N nhà nước hoạt đứng theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước

1995; DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt đứng theo Luật đẩu tư nước ngoài

1996; các doanh nghiệp còn lại thì hoạt đứng theo Luật Doanh nghiệp

1999... Sự phân biệt đối xử giữa D N Nhà nước v ớ i D N tư nhân, giữa đầu tư

trong nước và đấu tư nước ngoài vẫn chưa được khắc phục triệt để. Chất

lượng phát triển của D N Việt Nam cũng là mứt vấn đề đáng lo ngại. H ơ n

9 0 % DN Việt Nam có quy m ô vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính yếu, chiến

lược phát triển của nhiều D N chưa rõ ràng, trình đứ nguồn nhân lực còn

nhiều bất cập" '...

2



Phát triển doanh nghiệp là thúc đẩy tâng trường kinh tế, 04/08/2004. theo Thời báo tài chính

04/08/2004, w w . m o f eov.vii

Phát triển doanh nghiệp là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,04/08/2004, theo Thời báo tài chính

04/08/2004. www.mofgov.vn

1121



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

×