Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.18 MB, 100 trang )
37
đã trở thành một đòi hỏi tất yếu đối với doanh nghiệp k h i nền kinh tế hoạt
dộng có trật tự và hiệu quả, và đóng vai trò cân bằng l ợ i ích cho các chủ thê
hoạt động trong thị truồng. Chính vì vậy, quản lý của Nhà nước đối với vấn
dề này là vô cùng cặn thiết để bảo đảm k ế toán là công cụ quản lý giám sát
chặt chẽ, có hiệu quả m ọ i hoạt động kế toán tài chính; cung cấp thông tin
đặy đủ, n u n g thực, kịp thời, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cặu của tổ
chức quản lý, điều hành của cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá
nhân.
Khi nên kinh tê ở trong giai đoạn cơ chê kê hoạch hóa tập trung,
Nhà nước tiến hành quản lý trực tiếp m ọ i hoạt động sân xuất và tiêu thụ sản
phẩm của DN. D N phải tuân theo một cách nghiêm ngặt các chỉ tiêu k ế
hoạch quý, k ế hoạch năm, kế hoạch 5 năm một cách chi tiết từ kế hoạch sản
xuất kinh doanh, phân phối sản phẩm, chủng loại mặt hàng cặn phải sản
xuất, số lượng, giá cả, nơi tiêu thụ...Nhà nước thực hiện giám sát việc thực
hiện kế hoạch của D N thông qua hàng loạt các định mức kinh tế - kỹ thuật
được cấp có thẩm quyền ban hành. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của
D N thông qua đánh giá việc hoàn thành các chỉ tiêu k ế hoạch Nhà nước
giao. Trong lĩnh vực tài chính, việc giám sát D N và đánh giá D N được thực
hiện theo một quy trình nghiêm ngặt từ khâu lập báo cáo quyết toán của D N
đến khâu kiểm tra, thông báo phê duyệt quyết toán của đơn vị, cụ thể:
Khâu lập báo cáo quyết toán: trước k h i lập báo cáo quyết toán
tài chính thì D N phải được cấp có thẩm quyền duyệt báo cáo hoàn
Ihành k ế hoạch, từ đó làm cơ sở quyết toán vật tư, quyết toán tiền
lương; căn cứ vào báo cáo hoàn thành kế hoạch, quyết toán vật tư,
quyết toán tiền lương, D N thực hiện lập BCTC, trong đó phân tích rõ
cấc yếu tố tăng, giảm giá thành so vối k ế hoạch, so với định mức được
duyệt, phân tích lãi, lỗ; lãi l ỗ trong k ế hoạch, lãi l ỗ vượt kế hoạch,
đánh giá nguyên nhân chủ quan, khách quan đối với việc tăng, giảm
lãi.
3S
Khâu kiểm tra, phê duyệt báo cáo quyết toán: sau k h i nhận
được báo cáo quyết toán của DN, các cơ quan Nhà nước (Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ chủ quản) nghiên cứu tiến hành kiếm
tra, giám sát D N theo chức năng nhiệm vụ của mình trên cơ sở các
định mức kinh tế - kỹ thuật, kế hoạch được duyệt từ đó có những ý
kiến chắn chỉnh, uốn nắn, xử lý tài chính của D N bằng thòng báo phê
duyệt quyết toán, D N căn cứ vào thông báo phê duyệt quyết toán điều
chỉnh lại sổ sách kế toán và xác định lắy số dư đầu kỳ của quý, năm
sau.
Có thể nói kiểm tra giám sát D N thời kỳ này là hết sức chặt chẽ
nhưng do nhà nước can thiệp quá sâu vào việc tự chủ kinh doanh của D N
nên làm cho D N mắt quyền chủ động trong kinh doanh. Nhu cầu thông tin
kế toán trong thời kỳ này giữa Nhà nước và D N là thống nhắt với nhau, vì
thế thông tin k ế toán chỉ được trình bày trên một hệ thống báo cáo kế toán
duy nhắt do N h à nước quy định. Mặt khác, do quá cổng kềnh, quá nhiều
đầu mối, quá nhiều cơ quan trung gian, nên bộ máy quản lý mang nặng tính
quan liêu hành chính không có khả năng tiếp nhận những vắn đề nảy sinh từ
thực tiễn kinh doanh. Do đó, những kế hoạch được lập ra không mang tính
thực tế, thậm chí thoát ly với nhu cầu thực tế. Tinh hình trên dẫn đến nhiều
khi thông tin trình bày trên các báo cáo kế toán không phản ánh trung thực
tình hình thực hiện kế hoạch của DN, m à chỉ là những tài liệu để chứng
minh và hợp pháp hóa việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch cũng như việc
thực hiện những quy định của chế độ kế toán thống ké.
T ó m lại, thông t i n trình bày trên các báo cáo kế toán các D N trong
giai đoạn này chủ yếu là cung cắp thông tin cho Nhà nước để phản ánh tình
hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch, m à không cần chú trọng tới sự vận động
thực sự của các hoạt động kinh tế diễn ra tại DN. Thông t i n kế toán chỉ
phản ánh một chiều từ thực tế thực hiện so với kế hoạch được giao để cung
cắp thông t i n cho các cơ quan quản lý Nhà nước. Các đối tượng khác có liên
quan đến hoạt dộng của D N như khách hàng, nhà cung cắp, cơ quan tín
39
dụng... cũng thường quan hệ với D N thông qua các chỉ thị, mệnh lệnh hành
chính và thuồng chú trọng đến m ố i quan hệ thanh toán chứ không chú ý
đến sự quan hệ dựa trên l ợ i ích kinh tế. Vì vậy, những đối tượng này cũng
không quan tâm nhiều đến thông t i n trình bày trẽn hệ thống báo cáo kế toán
có phản ánh đúng thực trạng tài chính cểa D N hay không bời tất cả đều dựa
dẫm vào sự bao cấp cểa Nhà nước.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, m ô hình nền kinh tế phát
triển theo hướng có nhiều thành phẩn, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai
trò chể đạo. Các cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng quản lý D N về kinh
tế, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh cểa DN. Trong cơ
chế thị trường, các D N xây dựng kế hoạch sản xuất đầu tư theo nhu cẩu thị
trưởng. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh doanh lựa
chọn lĩnh vục hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh đổng
thời cũng đặt ra cho D N những điều kiện ràng buộc k h i đưa ra những quyết
định sản xuất kinh doanh liên quan đến quá trình thực hiện k ế hoạch. Thị
trường là nơi D N thể hiện sức mạnh cũng như những hạn chế cểa mình
trước các đối thể kinh doanh, và cũng chính thị trường sẽ phán quyết về khả
năng tồn tại và phát triển cểa DN. Hoạt động trong môi trường kinh doanh
như vậy thì việc đánh giá kết quả hoạt động cểa D N chể yếu dựa vào chỉ
tiêu lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cểa DN.
Đ ể quản lý việc lập và nộp BCTC cểa DN, Bộ Tài chính đã cho ban
hành Quyết định 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 về Chế độ báo cáo
tài chính doanh nghiệp và Chuẩn mực k ế toán số 21 ban hành và công bố
theo Quyết định 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003, áp dụng cho tất cả
các doanh nghiệp thuộc m ọ i lĩ vực, m ọ i thành phẩn kinh tế trong cả nước.
nh
Tất cả các doanh nghiệp độc lập (không nằm trong cơ cấu, tổ chức cểa một
doanh nghiệp khác), có tư cách pháp nhân đầy để đều phải lập và gửi BCTC
theo đúng các quy định tại chế độ này. Các BCTC được lập và gửi vào cuối
mỗi quý (cuối tháng thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 12 kể từ ngày bắt đầu niên độ
40
kế toán) để phản ánh tình hình tài chính của niên độ kế toán đó cho các cơ
quan quản lý N h à nước và cho doanh nghiệp cấp trên theo quy định. Trường
hợp doanh nghiệp có Công ty con (công ty trực thuộc) thì phải gửi kèm bản
sao BCTC cùng quý, cùng năm của Công ty con. Các doanh nghiệp có thể
lập BCTC hàng tháng để phục vụ yêu cầu quản lý và điề hành hoạt động
u
sản xuất kinh doanh. BCTC của các D N hạch toán độc lập và hạch toán phụ
thuộc Tững công ty được gửi chậm nhất là sau 20 ngày đối với báo cáo quý,
kể từ ngày kết thúc quý và chậm nhất là sau 30 ngày đối với báo cáo năm,
kể từ sau ngày kết thúc năm tài chính. Đ ố i với các Tững công ty, thời hạn
gửi BCTC chậm nhất là 45 ngày đối với báo cáo quý, kể từ ngày kết thúc
quý và chậm nhất là 90 ngày đối với báo cáo năm, kể từ sau ngày kết thúc
năm tài chính. Đ ố i với các doanh nghiệp tư nhân, các Công ty hợp danh,
thời hạn gửi BCTC năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài
chính. Còn đối với các Công ty trách nhiệm hữu hạn, các Công ty cữ phần,
các doanh nghiệp có vốn đẩu tư nước ngoài và các loại hình hợp tác xã, thời
hạn gửi BCTC năm chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Mặc dầu có các quy định như vậy nhưng theo báo cáo của Bộ Tài
chính, hiện nay cả nước chỉ có khoảng 2 0 % trong tững số hơn 100.000
doanh nghiệp ngoài quốc doanh thi hành nghiêm chỉnh việc nộp báo cáo tài
chính đến các cơ quan quản lý . Theo quy định tại điề 121, khoản 3 của
u
(25)
Luật doanh nghiệp năm 1999, sau 2 năm liên tiếp không nộp báo cáo tài
chính doanh nghiệp sẽ bị rút giấy phép đăng ký kinh doanh. T u y nhiên,
trước thực tế có quá í doanh nghiệp nộp nên đến cuối năm 2002 Chính phủ
t
đã có quyết định tạm hoãn việc thực hiện quy định này. Hiện nay, Bộ Tài
chính dang tiến hành soạn thảo quy chế tài chính đối v ớ i các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, theo đó sẽ ràng buộc trách nhiệm những doanh nghiệp
này phải nộp cho cơ quan Nhà nước báo cáo tài chính hằng năm.
Buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính (16/01/2004) theo Vnexpress. www.hapi.gov.vn
41
Đ ố i với vấn đề công khai và minh bạch các BCTC của doanh nghiệp
ra công chúng, hiện nay nhà nước chưa có quy định bắt buộc đối với DN.
trừ các doanh nghiệp niêm yết trên T T C K thì phải thực hiện công bố thông
tin theo nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và
thị trường chứng khoán.
2. Quan điểm của các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề công khai và
m i n h bạch các báo cáo tài chính
Nói cho người khác biết trong túi mình hiện có bao nhiêu tiền là điểu
không mấy dễ chịu. Nay lại phải kê khai rõ mình làm gì với số tiền đó lại
càng khó hơn. Chính vì tâm lý và thói quen che giấu, g i ỳ bí mật thông t i n
đó cộng với ảnh hưởng từ thời kỳ bao cấp nên các doanh nghiệp Việt Nam
thường "ngại" và chưa có thói quen công khai và minh bạch các báo cáo tài
chính của mình. Tuy nhiên, theo x u thế hội nhập hiện nay, việc minh bạch
và công khai báo cáo tài chính doanh nghiệp đã trở thành một x u thế tất
yếu, một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp trong việc thu hút vốn
đầu tư tư nhân trong nước cũng như ngoài nước. Mặc đầu vậy, quan điểm về
vấn đề này của các doanh nghiệp Việt Nam cũng không hoàn toàn giống
nhau, m à có nhiều điểm khác biệt. Điều đó phụ thuộc vào từng loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Cụ thể là:
Lập và nộp BCTC
là nghĩa vụ bắt buộc nên chỉ mang tính
pháp lệnh và hình thức và không muốn công khai, minh bạch các
tìCTC ra công chúng: Đây là quan điểm của hầu hết cá D N N N của
c
Việt Nam. Theo quy định tại điều 16, khoản 5 và điều 18 khoản 5 của
Luật
doanh
nghiệp
Nhà nước năm 1995 và Quyết định số
167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 về Chế độ báo cáo t i chính
à
doanh nghiệp, các D N N N buộc phải thực hiện nghĩa vụ lập và nộp
đầy đủ các BCTC của mình cho các cơ quan có thẩm quyền . Tuy
nhiên, nhiều k h i vì mục đích tư l ợ i cá nhân của ban lãnh đạo doanh
nghiệp, các BCTC thường bị cố tình làm sai, không đúng sự thật để
42
che giấu tình trạng làm ăn thua l ỗ , hoặc để được khen thường, trích
quỹ tư l ợ i cá nhân' ' ... Vấn đề công khai và m i n h bạch các BCTC ra
26
cóng chúng chưa thực sự được coi trọng và hầu như là không được
thực hiện trừ một số Ngân hàng lớn như là Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam, Ngân hàng đổu tư và phát triển... Ngay cả dối với các D N
hậu cổ phần hóa cũng có thói quen "ngại" phải cung cấp thông tin về
tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh. Do quyền lực
chi phối thực sự vẫn thuộc về các cổ đông nhà nước m à thông thường
là thành phần ban giám đốc cũ (được giao đại diện vốn nhà nước), họ
sợ bị mất quyền l ợ i dẫn đến sợ phải đối mặt với việc cóng khai và
minh bạch hóa k h i niêm yết.
Không thục hiện đẩy đủ các chỉ tiêu trình bày trên BCTC và
chỉ muốn công khai một phần thông tin về tình hình tài chính và hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Hầu hết các công ty cổ
phần chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn e
ngại k h i nghĩ đến việc huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán do không muốn phải công khai và minh bạch các BCTC của
mình k h i niêm yết. cổ đông chi phối, người điều hành của các công
ly cổ phần, muốn duy t ì quyền lợi cá nhân trong kiểm soát công ty
r
bằng cách duy t ì cổ phần chi phối và không muốn đa dạng hóa sở
r
hữu qua hình thức phát hành cổ phiếu cũng như công khai và minh
bạch thông t i n báo cáo tài chính. Thậm chí, họ còn không muốn cung
cấp dầy đủ thông tin về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh
của mình ngay cả đối với các cổ đông do pháp luật chưa có quy định
chặt chẽ về bảo về quyền lợi của các cổ đông của D N cổ phổn.
Muốn công khai và minh bạch các BCTC
ra công chúng: Đây
là quan điểm của hầu hết các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị
Irường chứng khoán. Khác với các doanh nghiệp khác trong nền kinh
Trần Văn Hiến, G i á m sát d o a n h n g h i ệ p - N h ữ n g đ i ể u c ầ n b à n , T ạ p c h í tài c h ỉ n h d o a n h n g h i ệ p ,
sô'7/2005. t r . 2 1 , 2 2
(26)