Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.73 MB, 87 trang )
25
xuất được 380 triệu mét vải/năm, ngành nhuộm và hoàn tất vải có khả năng
đáp ứng 380 triệu mét vải/năm, ngành dệt kim có 40 máy dệt kim, sản xuất
được 35 triệu sản phẩm dệt k i m các loại/nãm, ngành may có 130.000 máy
may, sản xuất được 400.000 sản phẩm/năm. Năng suất lao động thấp là một
văn đề lớn của ngành, mới chỉ bằng 30-50% so với các nước trong khu vực.
* Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
Trong xu thế phát triển chung, cơ cấu sản phẩm của ngành dệt may
cũng ngày càng được đa dạng hóa, tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của hàng
hoa trên thị trường còn thấp. Các sản phẩm của ngành dệt chưa đáp ứng
được yêu cẫu của ngành may về chất lượng, chủng loại nên các doanh
nghiệp may phải nhập vải từ nước ngoài dẫn đến tăng chi phí nguyên liệu
trong ngành may. Chủng loại sản phẩm của các mặt hàng dệt may Việt
Nam còn chậm được cải tiến, mẫu m ã của sản phẩm không có sự khác biệt
so với các sản phẩm khác trên thị trường. Trong khi các nước xuất khẩu vải
như Đức, Italia, Pháp, Đài Loan, Ân Độ, Pakistan, Trung Quốc... đẫu tư
nhiều cho nghiên cứu phát triển mặt hàng mới nên chủng loại mặt hàng
luôn thay đổi cả nguyên liệu, kiểu dáng lẫn xử lý hoàn tất thì ngành dệt
may Việt Nam lại thiếu đẫu tư vào khâu này nên sản phẩm sản xuất ra vẫn
còn rất đơn điệu. Hơn nữa khả năng cung cấp dịch vụ trong ngành dệt may
còn rất hạn chế do các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ nguyên vật liệu.
Ví như bông và xơ tổng hợp là hai loại nguyên liệu dệt chính nhưng phải
nhập ngoại: ngành dệt phải nhập hơn 9 0 % nguyên liệu bông xơ và 1 0 0 % xơ
sợi tổng hợp, 1 0 0 % thuốc nhuộm, chất trợ dệt. Giá bán các sản phẩm dệt
may phổ thông của Việt Nam thường cao hơn các sản phẩm cùng loại của
các nước trong khu vực 10-15%. So với hàng dệt may của Trung Quốc giá
bán của Việt Nam thậm chí còn cao hơn đến 2 0 % .
10
* Vê thị trường tiêu thụ:
• Thị trường xuất khẩu: Trước những năm 1990s, thị trường xuất khẩu
chính của ngành dệt may là các nước Liên X ô và Đông Âu. Sau khi Liên
10
Báo Diễn đàn doanh nghiệp ra ngày30/4/2004, trang 3.
26
X ô và Đông  u tan vỡ, ngành dệt may Việt Nam đã từng bước mở rộng thị
trường xuất khẩu sang các nước khác, đặc biệt là thị trường M ỹ và Tây Âu.
So với Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan xuất khẩu dệt may của Việt
Nam chỉ bạng khoảng 2,1%, so với Malaysia là nước xuất khẩu thấp cũng
chỉ bạng 30%. Hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua luôn đạt tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu cao, mức tăng trưởng trung bình l o năm (1991 2000) đạt 23,8%, năm 2001 tàng 4,4% so với năm 2000, năm 2002 tăng
33,3% so với năm 2000, năm 2003 tăng 30,8% so với năm 2000, năm 2004
kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may là 4.319 triệu USD (kim ngạch
xuất khẩu năm 2000 của ngành là 1892 triệu USD). Dệt may Việt Nam hiện
nay đã có mặt trên 100 nước và lãnh thổ nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào
các thị trường lớn là Mỹ, EU, Nhật Bản.
« Thị trường trong nước: Ngành công nghiệp dệt may chưa làm chủ được
thị trường trong nước do một mặt các doanh nghiệp chưa quan tâm đúng
mức tới thị trường này, mặt khác bị áp lực của hàng nhập tiểu ngạch, nhập
lậu không thuế từ Trung Quốc, các nước ASEAN, Đài Loan...Mặt khác trên
thị trường nội địa tràn ngập vải từ Trung Quốc và Thái Lan bạng nhiều con
đường khác nhau. Từ sau năm 2004, thị trường dệt may thế giới sẽ bước vào
thời kỳ tự do hơn khi Hiệp định hàng dệt may (ATC) hết hiệu lực. Điều này
buộc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đứng trước những thách thức
không nhỏ khi phải cạnh tranh sòng phảng hơn với các cường quốc về sản
xuất, xuất khẩu dệt may như Trung Quốc, Ân Độ, các nước Nam Mỹ, đặc
biệt là Trung Quốc một nước có rất nhiều lợi thế về sản xuất và xuất khẩu
hàng dệt may và lại vừa trở thành thành viên của WTO. Tuy nhiên ngành
dệt may vẫn luôn được đánh giá là một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của Việt Nam.
s
Vê trình độ công nghệ và thiết bị:
Tình trạng thiết bị công nghệ của ngành Dệt May rất khác nhau theo
thành phần. Có 5 loại công nghệ trong Ngành công nghiệp Dệt May là kéo
sợi, dệt thoi và dệt kim, dây truyền nhuộm in và may. Mặc dù các doanh
27
nghiệp Dệt may đã rất cố gắng nâng cấp công nghệ và thiết bị nhưng gần
như vẫn còn rất lạc hậu. Ở khâu kéo sợi chỉ có khoảng 3 0 % máy móc thuộc
trình độ khá (bao gồm cả máy mới, máy đã qua sự dụng và máy được chế
tạo), 7 0 % máy móc đạt trình độ trung bình và dưới trung bình). Tại khâu
dệt trừ các thiết bị dệt k i m tương đối khá còn dệt thoi chỉ có trên 3 5 % máy
mới, 2 5 % được cải tạo, 4 0 % là máy cũ. Còn khâu hoàn tất: 3 5 % số thiết bị
đã sự dụng trên 30 năm, 3 0 % sự dụng từ 20-30 năm, 3 5 % là thiết bị mới
nhưng cũng đã sự dụng 10-20 năm".
* Về chất lượng nguồn nhân lực:
Nhân lực của ngành dệt may hiện nay có khoảng gần 29,5 nghìn
người . Đây là một đội ngũ hùng hậu, có khả năng tiếp thu, nắm bắt nhanh
12
các qui trình sản xuất tiên tiến, có thể sự dụng thành thạo các công nghệ
mới để tạo ra các sản phẩm đạt chất lượng cao, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Nếu được tổ chức, đãi ngộ và bồi dưỡng tốt, đội ngũ nhân lực này có thể lao
động với năng suất rất cao, tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt không
thua kém đồng nghiệp ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, nhân lực ngành
dệt may còn một số hạn chế sau: Chưa cân đối về cơ cấu, thiếu các loại lao
động có chất lượng cao, thiếu lực lượng đầu đàn, đầu ngành, nhân lực thiết kế
mẫu mốt, chế tạo sản phẩm mới còn quá ít. Lực lượng tiếp thị, kinh doanh
xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. Ngoài ra tiền lương công nhân và các chi
phí khác đang có xu hướng ngày càng tăng lên, cùng với những yếu kém trong
những khâu tổ chức, quản lý khiến cho hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu phát
sinh những chi phí không đáng có càng khiến cho ngành dệt may Việt Nam
gặp nhiều khó khăn và bất lợi trong khả năng cạnh tranh.
2. Nhóm hàng da giầy
*• Vé năng lực sản xuất:
Tính đến năm 2004 ngành da giầy chiếm 418 doanh nghiệp trong tổng
số 4920 doanh nghiệp của toàn ngành công nghiệp. Giầy dép các loại sản
" Theo báo cáo cùa Hiệp hội dệt may Việt Nam
12
nam 2004.
Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004-2005 Việt Nam và thế giới, trang 24
28
xuất trung bình hàng năm là 422,0 triệu đôi/năm (trong đó giầy thể thao
chiếm 53,4%, giầy nữ chiếm 16,9%, giầy vải chiếm 14,9%, còn lại là các
loại khác). Năng lực thuộc da đạt 22 triệu sqft. Với năng lực trên, năm 2004
ngành sản xuất được 320 triệu đôi giầy dép và 17000 sqft da thành phẩm.
Số lao động trong ngành là 124,5 nghìn người (tính đến năm 2004) .
l3
* Về khả năng cạnh tranh cửa sản phẩm:
Giá cả của các sản phẩm giầy thấp, có khả năng cạnh tranh. Giầy
thể thao giá trung bình từ 7,7-7,8 USD/đôi, giầy nữ giá trung bình từ 4,244,65 USD/đôi, giầy vải giá trung bình từ 3,06-5,08 USD/đôi; Giá da thuộc
của Việt Nam thấp nhưng chất lượng lại kém các nước nên làm giảm khả
năng cạnh tranh. Giá da thành phẩm biến động từ 14-19 ngàn đởng/spft tuy
thuộc vào loại da. Giá này thấp hơn giá trung bình của thế giới là 1,37
USD/sqft (của Italia là 2,5 USD/sqft; của úc là 1,5 USD/sqft; của Trung
Quốc và Nhật Bản là 1,17 USD/sqft). Tuy nhiên thì về chủng loại cũng như
chất lượng của nhóm ngành thì rất khó có khả năng cạnh tranh với các sản
phẩm khác trên thị trường khu vực và thế giới hiện nay. Lý do bởi các sản
phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam rất nghèo nàn về kiểu dáng, mẫu mã,
chủ yếu là phụ thuộc vào mẫu thiết kế của khách hàng nước ngoài. Trong khi
đó thì các sản phẩm nhập lậu trên thị trường thì quá nhiều lại đa dạng về
chủng loại, giá cả lại rẻ, mẫu mã, kiểu dáng cũng đẹp. Tuy chất lượng có kém
hơn so với hàng sản xuất trong nước nhưng lại hợp với túi tiền của người tiêu
dùng nên nếu các doanh nghiệp không có những chiến lược phù hợp thì trong
một thời gian ngắn nữa thôi các sản phẩm nhập ngoại sẽ chiếm lĩnh thị trường,
các sản phẩm trong nước sẽ rất khó có khả năng cạnh tranh.
* Về thị trường tiêu thụ:
a Thị trường xuất khẩu: Trong l o nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu giầy
dép lớn nhất thế giới, Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Hởng Rông và
Italia. K i m ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 2.22 tỷ USD, tăng 19,2% so với
năm 2002 (kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 1.846 tỷ USD), năm 2004 là
13
Thời báo kinh tế Việt Nam
, Kinh tí 2004-2005 Việt Nam
và thế giới, trang 22.
29
2.604 triệu USD, mỗi năm bình quân tăng 13%. Giầy dép Việt Nam được
xuất sang 40 nước trên thế giới, trong đó trên 8 0 % là thị trường EU, 1 5 %
còn lại là thị trường Nhật Bản, M ỹ và các nước khác.
• Thị trường trong nước: Giầy dép tiêu thụ tại thị trường trong nước còn
quá í so với nhu cầu, chủ yếu do lực lượng thủ công, các doanh nghiệp tư
t
nhân sản xuất và một phần là các sản phởm không xuất được của các doanh
nghiệp quốc doanh. Các sản phởm giầy dép sản xuất trong nước bị cạnh
tranh gay gắt bởi hàng của Trung Quốc với mẫu m ã đa dạng, được bán với
giá rẻ do nhập lậu, trốn thuế. Nếu tính nhu cầu giầy dép bình quân đầu
người của Việt Nam từ 1-1,5 đôi/năm, với số dân hơn 80 triệu người, giầy
dép do các doanh nghiệp trong nước sản xuất mới đáp ứng được khoảng 233 3 % thị phởn.
* Về trình độ công nghệ và thiết bị:
Công nghệ và thiết bị của ngành da giầy mới thay thế được 3 0 % công
nghệ và thiết bị hiện đại, còn lại khoảng 7 0 % công nghệ, thiết bị đã sử dụng
trên 20 năm và hầu như đã khấu hao hết. Trong số 3 0 % công nghệ và thiết
bị hiện đại có một số dây chuyền ứng dụng công nghệ rất hiện đại, tự động
hoa trong điều khiển, tuy nhiên mới chỉ đạt hiệu suất 50-60%.
* Vê chất lượng nguồn nhàn lực:
N ă m 2004, toàn ngành có 124,5 nghìn người, trong đó hơn 300.000
lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất giầy, đồ da và khoảng 1.200 lao
động làm việc trong sản xuất da thuộc. Số cán bộ kỹ thuật của ngành giảm
nhiều và gần 15 năm không có nguồn bổ sung do không có sự đào tạo liên
tục đội ngũ cán bộ kỹ thuật cho ngành này. Hiện nay 4 5 % số cán bộ kỹ
thuật tập trung ở các Viện, chỉ có 5 5 % các doanh nghiệp . Đặc điểm của
ỏ
14
lao động ngành giầy da là:
•
Lao động nữ là chủ yếu, chiếm 80-85%. Lao động có trình độ lớp 12
chiếm khoảng 7 0 % .
14
Thòi báo kinh tế Việt Nam, kinh té 2004-2005 Việt Nam
và thế giới.
30
•
Hầu hết lao động được đào tạo theo hình thức kèm cặp là chủ yếu,
chỉ một số ít lao động được đào tạo qua các trường công nhân kỹ thuật của
Bộ Công nghiệp hoặc qua các trường May do hiện nay chưa có các trường
đào tạo chuyên ngành.
•
Phần lớn các cán bộ quản lý doanh nghiệp không được đào tạo lý
thuyết cơ bản, í kinh nghiệm về điều hành doanh nghiệp trong môi trường
t
kinh tế thị trường cạnh tranh.
•
Năng suụt lao động trong lĩnh vực sản xuụt da giầy còn quá thụp so
với các nước trong khu vực. Năng suụt lao động ngành da giầy hiện nay mới
chỉ đạt bình quân trên Ì .000 đôi/người/năm, trong khi năng suụt lao động ở
Italia 25 năm trước đã là 2.609 đôi/người/năm và hiện nay đạt tới 3.957
đôi/người/năm.
3. Nhóm hàng cơ khí
* Vé năng lực sẩn xuất:
Năng lực sản xuụt của ngành cơ khí còn khá khiêm tốn nếu so với nhu
cầu của nền kinh tế quốc dân. N ă m 2004, ngành cơ khí đã sản xuụt được
54,1 ngàn động cơ điện; 53,5 ngàn động cơ diezen; 117280 máy biến thế;
trên Ì triệu xe máy, 12500 xe ôtô; 450 máy công cụ; 8500 máy tuốt lúa có
động cơ; 1800 máy kéo và xe vận chuyển; 3400 bơm nước nông nghiệp;
hàng trăm tàu vận tải loại dưới 1.000 tụn; hàng chục tầu vận tải chuyên
dụng từ 1.000 - 2.000 tụn; 57 ngàn tụn kết cụu thép, thiết bị siêu trường siêu
trọng ... Đáng kể nhụt là ngành cơ khí tầu thủy đã đóng thành công các tàu
15
lớn, phức tạp như tàu hàng 11.500 tụn, tàu chở khí hóa lỏng LPG 2.500 m ,
3
tàu dầu 3.500 tụn, tàu xén thổi 1.000 m .
3
* Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
• Xét về chụt lượng sản phẩm: Nhiều loại sản phẩm đạt tiêu chuẩn chụt
lượng xuụt khẩu và đang có thị phần trên thị trường ngoài nước như đồng hồ
đo điện, dây và cáp điện của Cadivi, một số loại tầu (tầu 11.500, 6.500 tụn,
tầu xén thổi 1.000 - 1.500 m /h, tầu dịch vụ), máy động lực cỡ nhỏ của
3
15
Bộ kế hoạch và Đầu tư/ UNIDO. "Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam" NXB CTQG 2004.
31
VINAPRO, V I K Y N O , các công trình thiết bị toàn bộ do các nhà thầu chính
Việt Nam sản xuất theo mẫu, thiết kế của nước ngoài đạt chất lượng cao.
» Xét về giá cả sản phẩm: Nhiều sản phẩm cơ khí có chất lượng tương
đương nhưng giá thấp hơn giá quốc tế như: Thiết bị toàn bộ có giá chỉ bằng
60-80% của nước ngoài, giá các loại tàu đóng trong nước cũng chỉ bằng 608 0 % giá nhập ngoại. Đ ố i với các loại động cơ điện, máy biến áp Ì pha giá
sản xuất trong nước đỏu thấp hơn từ 12-14% giá nhập. Tuy vậy, giá động cơ
diezen cỡ nhỏ, dây và cáp điện lại cao hơn giá nhập khẩu...
* Vế thị trường tiêu thụ:
« Ngành chế tạo máy động lực: Thị trường xuất khẩu chủ yếu là I-rắc và
đang xúc tiến việc mở rộng thị trường sang các nước Nam Âu, Châu Phi,
Nam Mỹ. Tại khu vực thị trường trong nước, ngành máy động lực đang bị
hàng ngoại chèn ép, thị phần bị thu hẹp, ngoài một số cơ sở phía Nam như
Vinapro, Vikyno năng động trong sản xuất kinh doanh, mở rộng được thị
phần trong nước còn lại các doanh nghiệp khác gần như không được thị
trường trong nước chấp nhận.
• Sản phẩm thiết bị toàn bộ mới chỉ đáp ứng khoảng 10 - 1 2 % nhu cầu thị
trường trong nước. Riêng các sản phẩm kết cấu thép, thiết bị phi tiêu chuẩn,
siêu trường - siêu trọng phát triỏn khá nhanh trong 5 năm trở lại đây, tập
trung chủ yếu ở 3 Tổng công ty: Tổng công ty máy và thiết bị công nghiệp
(Bộ Công nghiệp), Tổng công ty lắp máy Việt Nam (Bộ Xây dựng), Tổng
công ty cơ khí xây dựng (Bộ Xây dựng).
« Sản phẩm thiết bị kỹ thuật điện mới chỉ chiếm được từ 30-90% thị
trường trong nước (tuy theo mặt hàng). Hiện nay giá trị xuất khẩu của nhóm
sản phẩm này còn quá nhỏ chỉ có 2,2 triệu USD với mặt hàng xuất khẩu là
công tơ điện, sứ cách điện, sản phẩm điện dân dụng, dây và cáp điện...
Ngành công nghiệp tầu thủy: Hiện nay khả năng của ngành công nghiệp đóng và
sửa chữa tàu thuyền Việt Nam mới chỉ đáp ứng được khoảng 2 0 % nhu cầu đóng
mối, 1 5 % nhu cầu sửa chữa, ương đó chủ yếu là các loại tàu thuyền cỡ nhỏ .
16
16
Báo Đầu lư, ngày 31/3/2004, trang 8.
32
* Vế trình độ công nghệ và thiết bị:
Phần lớn các thiết bị và công nghệ của ngành cơ khí đều đã qua sử
dụng trên 20 năm, kỹ thuật lạc hậu, độ chính xác kém, quy trình sản xuất
khép kín, thiếu chuyên môn hoa, tụt hậu khoảng 2-3 thế hệ so với khu vực.
Mặc dù phần lớn các doanh nghiệp cơ khí đang cố gờng bước đầu cải tiến,
đổi mới công nghệ, áp dụng phần mềm trong thiết kế nhưng kết quả đạt
được chưa nhiều.
*v'é chất lượng nguồn nhăn lục:
Hiện nay, theo thống kê, tổng số lao động toàn ngành là 224.800
người. Trong đó lực lượng lao động quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật có
trình độ đại học và trên đại học khoảng trên Ì vạn người. Đây chính là
nguồn lực quan trọng để phát triển ngành. Ba vấn đề nổi lên trong lực lượng
lao động ngành cơ khí là:
< Mặc dù trong những năm gần đây tiền lương trung bình của lao động cơ
*
khí đã đã cao hơn khoảng 2 0 % so với trước và đang ở mức cao hơn so với
tiền lương trung bình lao động cơ khí của Trung Quốc nhưng cũng mới chỉ
bằng 5 0 % mức lương của Indonesia và thấp hơn nhiều nước khác.
* Năng suất lao động tính theo USD của lao động cơ khí Việt Nam thấp
hơn đáng kể so với ở Indonesia và thấp hơn nhiều so với ở Malaysia, Hàn
Quốc, Đài Loan, Singapore.
« Chi phí cho một đơn vị lao động cao, điều này cho thấy sức cạnh tranh về
chi phí trong ngành là thấp hơn nhiều so với Indonesia và cũng thấp hơn so với
tỷ số tương ứng đối với Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc và Singapore.
4. Nhóm hàng hóa chất
* Về năng lực sản xuất:
N ă m 2004 sản xuất được 973 ngàn tấn phán lân, 99 ngàn tấn phân
đạm, và Ì triệu tăn phân NPK, 573 ngàn bộ lốp ôtô, 5,4 triệu bộ lốp xe máy và
13,7 triệu bộ lốp xe đạp, 330 ngàn tấn chất giặt rửa, 568 ngàn kwh ờc quy.
33
Đáp ứng đủ 1 0 0 % nhu cầu trong nước về phân lân, phân NPK, chất giặt rửa,
ắc quy, lốp xe tải nhẹ, lốp máy kéo. Riêng phân đạm mới đáp ứng được 6 %
nhu cầu còn các loại phân SA, ĐÁP, Kali hoàn toàn phải nhập khẩu' .
7
* Về khả năng cạnh tranh cửa sản phẩm:
Sản phẩm phân bón gồm 4 nhóm chính: Phân đạm urê, phân lân chế
biến, phân hằn hợp dạng rắn, lỏng, phân khoáng nghiền. Các sản phẩm điện
hoa, cao su, giặt rửa có chủng loại không nhiều. Nhìn chung chất lượng sản
phẩm hoa chất chưa bằng sản phẩm ngoại nhập nhưng đa số sản phẩm đạt
chất lượng đăng ký quốc gia. Giá bán phân bón có nhiều mức khác nhau,
liên quan tới chi phí vận chuyển, số lượng lô hàng, điều kiện thanh toán...
Phân supe lân giá 925.000 đồng/tấn; phân NPK có hàm lượng dinh dưỡng
nghèo giá 1,1 triệu đồng/tấn; phân NPK giấu dinh dưỡng giá 2-2,6 triệu
đồng/tấn tùy theo nhà máy sản xuất. Giá các sản phẩm điện hoa của các
doanh nghiệp Việt Nam thấp hơn giá các sản phẩm điện hóa của Trung
Quốc nên cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Đày là một trong những lợi
thế giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình.
* Vê thị trường tiêu thụ:
Ngành sản xuất phân bón của ta chủ yếu để cung cấp cho nhu cầu
trong nước, phần xuất khẩu không đáng kể. Hiện tại mới chỉ đáp ứng được
trên 4 0 % nhu cầu trong nước, gần 6 0 % nhu cầu còn lại phải nhập ngoại.
Sản phẩm cao su chủ yếu là cung cấp cho thị trường trong nước, xuất khẩu
không đáng kể, năm 2004 kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD với các
sản phẩm săm lốp ô-tô, săm lốp xe công nghiệp xe máy và săm lốp xe
đạp . Về sản phẩm điện hoa: ắc quy chủ yếu cung cấp cho thị trường trong
18
nước, xuất khẩu còn khiêm tốn mới đạt khoảng 2,5 triệu USD vào một số
nước Đông Á, Trung Đông, (đang xuất thử sang châu Âu). Tồn tại hiện nay
của sản phẩm điện hoa là chưa có các sản phẩm cao cấp như ắc qui kiềm,
" Báo Đ ầ u tư số ra 11/4/2004.
" Thời báo kinh tế Việt Nam. Kinh lê' 2004-2005 Việt Nam và thế giới trang 21.
34
pin k i m loại, pin đặc chủng dùng cho các thiết bị điện tử, đồng hồ. về chất
giặt rửa: Sản lượng bột giặt, kem giặt đáp ứng đủ nhu cẩu trong nước và có
xuất khẩu sang thị trường nước ngoài nhưng với số lượng còn nhỹ đạt trên
dưới 7 triệu đô la mỗi năm, bao gồm bột giặt, kem giặt, xà phòng tắm, kem
đánh răng và một vài mỹ phẩm khác.
* Về trình độ công nghệ và thiết bị:
Trình độ công nghệ và thiết bị sản xuất các loại hoa chất phân bón
đã lạc hậu trên 25-30 năm. Trong ngành hoa chất chỉ có công nghệ sản xuất
xút, sản phẩm cao su, ắc quy, pin, chất tẩy rửa, hoa mỹ phẩm là có công
nghệ sản xuất tương đối hiện đại có thể ngang bằng với trình độ của các
nước tiên tiên trong khu vực.
* Về chất lượng nguồn nhăn lực:
Lực lượng lao động trong các nhóm sản phẩm của ngành hoa chất như sau:
•
N h ó m sản phẩm phân bón: Sản xuất phân bón hoa học của Việt Nam có
từ gần 40 năm nay, nên đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật của ngành được
đào tạo bài bản, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, trình độ quản lý mới chỉ đạt mức trung bình.
•
N h ó m sản phẩm cao su: Cũng như công nghiệp sản xuất phân bón,
ngành sản xuất cao su lịch sử gần 40 năm do vậy ngành có một đội ngũ
công nhân đông đảo, lành nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo
thường xuyên. Tuy nhiên, trình độ quản lý chỉ mới bước đầu làm quen với
cơ chế thị trường, chứ chưa được đào tạo bài bản.
«
N h ó m sản phẩm điện hoa: Đ ộ i ngũ cán bộ, công nhân trong khu
vực sản xuất pin-ăc quy của ta chỉ mới ở mức khiêm tốn có khoảng 2.500
người. Trong đó có khoảng 1 0 % là cán bộ kỹ thuật, còn lại là chủ yếu là
công nhân và một số nhỹ cán bộ quản lý.
35
•
N h ó m sản phẩm giặt rửa: Tổng số cán bộ cồng nhân trong ngành sản
xuất chất giặt rửa chỉ có khoảng dưới 2.000 người, trong đó cán bộ kỹ thuật
chiếm khoảng 10,5%, còn lại là công nhân và một số ít cán bộ quản lý.
5. N h ó m hàng điện tử
* Vế năng lực sản xuất:
Toàn ngành có hơn 200 công ty điện tử - tin hủc, trong đó khoảng
100 công ty thuộc sở hữu của Nhà nước, 29 công ty liên doanh, 21 công ty
1 0 0 % vốn F D I và gần 60 công ty thuộc sở hữu tư nhân trong nước. N ă m
2004, k i m ngạch xuất khẩu của ngành là 1077 triệu USD toàn ngành sản
xuất được 246 ngàn tivi, 28,8 ngàn audio, 62 ngàn video, trên 2200 máy
tính các loại . Quy m ô sản xuất đã vượt quá nhu cầu thị trường trong nước,
19
trong khi thị trường xuất khẩu đang rất khó khăn. Chẳng hạn như sản phẩm
tivi, hiện tại thị trường trong nước chỉ tiêu thụ được khoảng 700.000
chiếc/năm trong khi xuất khẩu tăng chậm nên chưa vận hành hết công suất.
Các loại đồ điện tử dân dụng khác như: radio-cassette, đầu đủc đĩa CD,
VCD, VCR... cũng diễn ra tình trạng tương tự như sản phẩm tivi.
* Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
Sản phẩm của các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là hàng gia dụng,
thiết bị viễn thông chỉ chiếm 30%, t hiết bị điện tử công nghiệp chiếm 1 3 % và
máy t chiếm 1 5 % tổng giá trị sản lượng của toàn ngành. Có một thực tế đáng
ính
lo ngại nhất đó là sản phẩm điện tử "Made in Vietnam" đang có xu hướng giảm
về sản lượng do xuất khẩu tăng không đáng kể và sức tiêu thụ trong nước gần
như bão hoa. Hầu hết các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đều cao
hơn hàng điện tử của Malaysia, Trung Quốc về giá thành. Nguyên nhân cơ bản
là do linh kiện lắp ráp của Việt Nam quá cao, gấp tới 5-6 lần các nước láng
giềng . Trung bình chi phí lắp ráp ti vi của Việt Nam là 11-12 USD/chiếc (gần
20
đây Nhà máy Sony Việt Nam kéo được xuống 9 USD/chiếc), trong khi đó thì
" Thúi báo kinh tế Việt Nam
2004-2005. tờ kinh tế 2004-2005 Việt Nam
và thế giới. trang 22.
L ẽ V ă n Chính (2004). "Công nghiệp điện từ theo hướng nào". Thời báo kinh tế Sài G ò n số 216, ngày
10/4/2004.
2 0