1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Nhóm hàng da giầy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.73 MB, 87 trang )


28

xuất trung bình hàng năm là 422,0 triệu đôi/năm (trong đó giầy thể thao

chiếm 53,4%, giầy nữ chiếm 16,9%, giầy vải chiếm 14,9%, còn lại là các

loại khác). Năng lực thuộc da đạt 22 triệu sqft. Với năng lực trên, năm 2004

ngành sản xuất được 320 triệu đôi giầy dép và 17000 sqft da thành phẩm.

Số lao động trong ngành là 124,5 nghìn người (tính đến năm 2004) .

l3



* Về khả năng cạnh tranh cửa sản phẩm:

Giá cả của các sản phẩm giầy thấp, có khả năng cạnh tranh. Giầy

thể thao giá trung bình từ 7,7-7,8 USD/đôi, giầy nữ giá trung bình từ 4,244,65 USD/đôi, giầy vải giá trung bình từ 3,06-5,08 USD/đôi; Giá da thuộc

của Việt Nam thấp nhưng chất lượng lại kém các nước nên làm giảm khả

năng cạnh tranh. Giá da thành phẩm biến động từ 14-19 ngàn đởng/spft tuy

thuộc vào loại da. Giá này thấp hơn giá trung bình của thế giới là 1,37

USD/sqft (của Italia là 2,5 USD/sqft; của úc là 1,5 USD/sqft; của Trung

Quốc và Nhật Bản là 1,17 USD/sqft). Tuy nhiên thì về chủng loại cũng như

chất lượng của nhóm ngành thì rất khó có khả năng cạnh tranh với các sản

phẩm khác trên thị trường khu vực và thế giới hiện nay. Lý do bởi các sản

phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam rất nghèo nàn về kiểu dáng, mẫu mã,

chủ yếu là phụ thuộc vào mẫu thiết kế của khách hàng nước ngoài. Trong khi

đó thì các sản phẩm nhập lậu trên thị trường thì quá nhiều lại đa dạng về

chủng loại, giá cả lại rẻ, mẫu mã, kiểu dáng cũng đẹp. Tuy chất lượng có kém

hơn so với hàng sản xuất trong nước nhưng lại hợp với túi tiền của người tiêu

dùng nên nếu các doanh nghiệp không có những chiến lược phù hợp thì trong

một thời gian ngắn nữa thôi các sản phẩm nhập ngoại sẽ chiếm lĩnh thị trường,

các sản phẩm trong nước sẽ rất khó có khả năng cạnh tranh.



* Về thị trường tiêu thụ:

a Thị trường xuất khẩu: Trong l o nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu giầy

dép lớn nhất thế giới, Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Hởng Rông và

Italia. K i m ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 2.22 tỷ USD, tăng 19,2% so với

năm 2002 (kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 1.846 tỷ USD), năm 2004 là

13



Thời báo kinh tế Việt Nam



, Kinh tí 2004-2005 Việt Nam



và thế giới, trang 22.



29

2.604 triệu USD, mỗi năm bình quân tăng 13%. Giầy dép Việt Nam được

xuất sang 40 nước trên thế giới, trong đó trên 8 0 % là thị trường EU, 1 5 %

còn lại là thị trường Nhật Bản, M ỹ và các nước khác.

• Thị trường trong nước: Giầy dép tiêu thụ tại thị trường trong nước còn

quá í so với nhu cầu, chủ yếu do lực lượng thủ công, các doanh nghiệp tư

t

nhân sản xuất và một phần là các sản phởm không xuất được của các doanh

nghiệp quốc doanh. Các sản phởm giầy dép sản xuất trong nước bị cạnh

tranh gay gắt bởi hàng của Trung Quốc với mẫu m ã đa dạng, được bán với

giá rẻ do nhập lậu, trốn thuế. Nếu tính nhu cầu giầy dép bình quân đầu

người của Việt Nam từ 1-1,5 đôi/năm, với số dân hơn 80 triệu người, giầy

dép do các doanh nghiệp trong nước sản xuất mới đáp ứng được khoảng 233 3 % thị phởn.

* Về trình độ công nghệ và thiết bị:

Công nghệ và thiết bị của ngành da giầy mới thay thế được 3 0 % công

nghệ và thiết bị hiện đại, còn lại khoảng 7 0 % công nghệ, thiết bị đã sử dụng

trên 20 năm và hầu như đã khấu hao hết. Trong số 3 0 % công nghệ và thiết

bị hiện đại có một số dây chuyền ứng dụng công nghệ rất hiện đại, tự động

hoa trong điều khiển, tuy nhiên mới chỉ đạt hiệu suất 50-60%.

* Vê chất lượng nguồn nhàn lực:

N ă m 2004, toàn ngành có 124,5 nghìn người, trong đó hơn 300.000

lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất giầy, đồ da và khoảng 1.200 lao

động làm việc trong sản xuất da thuộc. Số cán bộ kỹ thuật của ngành giảm

nhiều và gần 15 năm không có nguồn bổ sung do không có sự đào tạo liên

tục đội ngũ cán bộ kỹ thuật cho ngành này. Hiện nay 4 5 % số cán bộ kỹ

thuật tập trung ở các Viện, chỉ có 5 5 % các doanh nghiệp . Đặc điểm của



14



lao động ngành giầy da là:





Lao động nữ là chủ yếu, chiếm 80-85%. Lao động có trình độ lớp 12



chiếm khoảng 7 0 % .



14



Thòi báo kinh tế Việt Nam, kinh té 2004-2005 Việt Nam



và thế giới.



30





Hầu hết lao động được đào tạo theo hình thức kèm cặp là chủ yếu,



chỉ một số ít lao động được đào tạo qua các trường công nhân kỹ thuật của

Bộ Công nghiệp hoặc qua các trường May do hiện nay chưa có các trường

đào tạo chuyên ngành.





Phần lớn các cán bộ quản lý doanh nghiệp không được đào tạo lý



thuyết cơ bản, í kinh nghiệm về điều hành doanh nghiệp trong môi trường

t

kinh tế thị trường cạnh tranh.





Năng suụt lao động trong lĩnh vực sản xuụt da giầy còn quá thụp so



với các nước trong khu vực. Năng suụt lao động ngành da giầy hiện nay mới

chỉ đạt bình quân trên Ì .000 đôi/người/năm, trong khi năng suụt lao động ở

Italia 25 năm trước đã là 2.609 đôi/người/năm và hiện nay đạt tới 3.957

đôi/người/năm.



3. Nhóm hàng cơ khí

* Vé năng lực sẩn xuất:

Năng lực sản xuụt của ngành cơ khí còn khá khiêm tốn nếu so với nhu

cầu của nền kinh tế quốc dân. N ă m 2004, ngành cơ khí đã sản xuụt được

54,1 ngàn động cơ điện; 53,5 ngàn động cơ diezen; 117280 máy biến thế;

trên Ì triệu xe máy, 12500 xe ôtô; 450 máy công cụ; 8500 máy tuốt lúa có

động cơ; 1800 máy kéo và xe vận chuyển; 3400 bơm nước nông nghiệp;

hàng trăm tàu vận tải loại dưới 1.000 tụn; hàng chục tầu vận tải chuyên

dụng từ 1.000 - 2.000 tụn; 57 ngàn tụn kết cụu thép, thiết bị siêu trường siêu

trọng ... Đáng kể nhụt là ngành cơ khí tầu thủy đã đóng thành công các tàu

15



lớn, phức tạp như tàu hàng 11.500 tụn, tàu chở khí hóa lỏng LPG 2.500 m ,

3



tàu dầu 3.500 tụn, tàu xén thổi 1.000 m .

3



* Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm:

• Xét về chụt lượng sản phẩm: Nhiều loại sản phẩm đạt tiêu chuẩn chụt

lượng xuụt khẩu và đang có thị phần trên thị trường ngoài nước như đồng hồ

đo điện, dây và cáp điện của Cadivi, một số loại tầu (tầu 11.500, 6.500 tụn,

tầu xén thổi 1.000 - 1.500 m /h, tầu dịch vụ), máy động lực cỡ nhỏ của

3



15



Bộ kế hoạch và Đầu tư/ UNIDO. "Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam" NXB CTQG 2004.



31

VINAPRO, V I K Y N O , các công trình thiết bị toàn bộ do các nhà thầu chính

Việt Nam sản xuất theo mẫu, thiết kế của nước ngoài đạt chất lượng cao.

» Xét về giá cả sản phẩm: Nhiều sản phẩm cơ khí có chất lượng tương

đương nhưng giá thấp hơn giá quốc tế như: Thiết bị toàn bộ có giá chỉ bằng

60-80% của nước ngoài, giá các loại tàu đóng trong nước cũng chỉ bằng 608 0 % giá nhập ngoại. Đ ố i với các loại động cơ điện, máy biến áp Ì pha giá

sản xuất trong nước đỏu thấp hơn từ 12-14% giá nhập. Tuy vậy, giá động cơ

diezen cỡ nhỏ, dây và cáp điện lại cao hơn giá nhập khẩu...

* Vế thị trường tiêu thụ:

« Ngành chế tạo máy động lực: Thị trường xuất khẩu chủ yếu là I-rắc và

đang xúc tiến việc mở rộng thị trường sang các nước Nam Âu, Châu Phi,

Nam Mỹ. Tại khu vực thị trường trong nước, ngành máy động lực đang bị

hàng ngoại chèn ép, thị phần bị thu hẹp, ngoài một số cơ sở phía Nam như

Vinapro, Vikyno năng động trong sản xuất kinh doanh, mở rộng được thị

phần trong nước còn lại các doanh nghiệp khác gần như không được thị

trường trong nước chấp nhận.

• Sản phẩm thiết bị toàn bộ mới chỉ đáp ứng khoảng 10 - 1 2 % nhu cầu thị

trường trong nước. Riêng các sản phẩm kết cấu thép, thiết bị phi tiêu chuẩn,

siêu trường - siêu trọng phát triỏn khá nhanh trong 5 năm trở lại đây, tập

trung chủ yếu ở 3 Tổng công ty: Tổng công ty máy và thiết bị công nghiệp

(Bộ Công nghiệp), Tổng công ty lắp máy Việt Nam (Bộ Xây dựng), Tổng

công ty cơ khí xây dựng (Bộ Xây dựng).

« Sản phẩm thiết bị kỹ thuật điện mới chỉ chiếm được từ 30-90% thị

trường trong nước (tuy theo mặt hàng). Hiện nay giá trị xuất khẩu của nhóm

sản phẩm này còn quá nhỏ chỉ có 2,2 triệu USD với mặt hàng xuất khẩu là

công tơ điện, sứ cách điện, sản phẩm điện dân dụng, dây và cáp điện...

Ngành công nghiệp tầu thủy: Hiện nay khả năng của ngành công nghiệp đóng và

sửa chữa tàu thuyền Việt Nam mới chỉ đáp ứng được khoảng 2 0 % nhu cầu đóng

mối, 1 5 % nhu cầu sửa chữa, ương đó chủ yếu là các loại tàu thuyền cỡ nhỏ .

16



16



Báo Đầu lư, ngày 31/3/2004, trang 8.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

×