Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.73 MB, 87 trang )
25
xuất được 380 triệu mét vải/năm, ngành nhuộm và hoàn tất vải có khả năng
đáp ứng 380 triệu mét vải/năm, ngành dệt kim có 40 máy dệt kim, sản xuất
được 35 triệu sản phẩm dệt k i m các loại/nãm, ngành may có 130.000 máy
may, sản xuất được 400.000 sản phẩm/năm. Năng suất lao động thấp là một
văn đề lớn của ngành, mới chỉ bằng 30-50% so với các nước trong khu vực.
* Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
Trong xu thế phát triển chung, cơ cấu sản phẩm của ngành dệt may
cũng ngày càng được đa dạng hóa, tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của hàng
hoa trên thị trường còn thấp. Các sản phẩm của ngành dệt chưa đáp ứng
được yêu cẫu của ngành may về chất lượng, chủng loại nên các doanh
nghiệp may phải nhập vải từ nước ngoài dẫn đến tăng chi phí nguyên liệu
trong ngành may. Chủng loại sản phẩm của các mặt hàng dệt may Việt
Nam còn chậm được cải tiến, mẫu m ã của sản phẩm không có sự khác biệt
so với các sản phẩm khác trên thị trường. Trong khi các nước xuất khẩu vải
như Đức, Italia, Pháp, Đài Loan, Ân Độ, Pakistan, Trung Quốc... đẫu tư
nhiều cho nghiên cứu phát triển mặt hàng mới nên chủng loại mặt hàng
luôn thay đổi cả nguyên liệu, kiểu dáng lẫn xử lý hoàn tất thì ngành dệt
may Việt Nam lại thiếu đẫu tư vào khâu này nên sản phẩm sản xuất ra vẫn
còn rất đơn điệu. Hơn nữa khả năng cung cấp dịch vụ trong ngành dệt may
còn rất hạn chế do các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ nguyên vật liệu.
Ví như bông và xơ tổng hợp là hai loại nguyên liệu dệt chính nhưng phải
nhập ngoại: ngành dệt phải nhập hơn 9 0 % nguyên liệu bông xơ và 1 0 0 % xơ
sợi tổng hợp, 1 0 0 % thuốc nhuộm, chất trợ dệt. Giá bán các sản phẩm dệt
may phổ thông của Việt Nam thường cao hơn các sản phẩm cùng loại của
các nước trong khu vực 10-15%. So với hàng dệt may của Trung Quốc giá
bán của Việt Nam thậm chí còn cao hơn đến 2 0 % .
10
* Vê thị trường tiêu thụ:
• Thị trường xuất khẩu: Trước những năm 1990s, thị trường xuất khẩu
chính của ngành dệt may là các nước Liên X ô và Đông Âu. Sau khi Liên
10
Báo Diễn đàn doanh nghiệp ra ngày30/4/2004, trang 3.
26
X ô và Đông  u tan vỡ, ngành dệt may Việt Nam đã từng bước mở rộng thị
trường xuất khẩu sang các nước khác, đặc biệt là thị trường M ỹ và Tây Âu.
So với Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan xuất khẩu dệt may của Việt
Nam chỉ bạng khoảng 2,1%, so với Malaysia là nước xuất khẩu thấp cũng
chỉ bạng 30%. Hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua luôn đạt tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu cao, mức tăng trưởng trung bình l o năm (1991 2000) đạt 23,8%, năm 2001 tàng 4,4% so với năm 2000, năm 2002 tăng
33,3% so với năm 2000, năm 2003 tăng 30,8% so với năm 2000, năm 2004
kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may là 4.319 triệu USD (kim ngạch
xuất khẩu năm 2000 của ngành là 1892 triệu USD). Dệt may Việt Nam hiện
nay đã có mặt trên 100 nước và lãnh thổ nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào
các thị trường lớn là Mỹ, EU, Nhật Bản.
« Thị trường trong nước: Ngành công nghiệp dệt may chưa làm chủ được
thị trường trong nước do một mặt các doanh nghiệp chưa quan tâm đúng
mức tới thị trường này, mặt khác bị áp lực của hàng nhập tiểu ngạch, nhập
lậu không thuế từ Trung Quốc, các nước ASEAN, Đài Loan...Mặt khác trên
thị trường nội địa tràn ngập vải từ Trung Quốc và Thái Lan bạng nhiều con
đường khác nhau. Từ sau năm 2004, thị trường dệt may thế giới sẽ bước vào
thời kỳ tự do hơn khi Hiệp định hàng dệt may (ATC) hết hiệu lực. Điều này
buộc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đứng trước những thách thức
không nhỏ khi phải cạnh tranh sòng phảng hơn với các cường quốc về sản
xuất, xuất khẩu dệt may như Trung Quốc, Ân Độ, các nước Nam Mỹ, đặc
biệt là Trung Quốc một nước có rất nhiều lợi thế về sản xuất và xuất khẩu
hàng dệt may và lại vừa trở thành thành viên của WTO. Tuy nhiên ngành
dệt may vẫn luôn được đánh giá là một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của Việt Nam.
s
Vê trình độ công nghệ và thiết bị:
Tình trạng thiết bị công nghệ của ngành Dệt May rất khác nhau theo
thành phần. Có 5 loại công nghệ trong Ngành công nghiệp Dệt May là kéo
sợi, dệt thoi và dệt kim, dây truyền nhuộm in và may. Mặc dù các doanh
27
nghiệp Dệt may đã rất cố gắng nâng cấp công nghệ và thiết bị nhưng gần
như vẫn còn rất lạc hậu. Ở khâu kéo sợi chỉ có khoảng 3 0 % máy móc thuộc
trình độ khá (bao gồm cả máy mới, máy đã qua sự dụng và máy được chế
tạo), 7 0 % máy móc đạt trình độ trung bình và dưới trung bình). Tại khâu
dệt trừ các thiết bị dệt k i m tương đối khá còn dệt thoi chỉ có trên 3 5 % máy
mới, 2 5 % được cải tạo, 4 0 % là máy cũ. Còn khâu hoàn tất: 3 5 % số thiết bị
đã sự dụng trên 30 năm, 3 0 % sự dụng từ 20-30 năm, 3 5 % là thiết bị mới
nhưng cũng đã sự dụng 10-20 năm".
* Về chất lượng nguồn nhân lực:
Nhân lực của ngành dệt may hiện nay có khoảng gần 29,5 nghìn
người . Đây là một đội ngũ hùng hậu, có khả năng tiếp thu, nắm bắt nhanh
12
các qui trình sản xuất tiên tiến, có thể sự dụng thành thạo các công nghệ
mới để tạo ra các sản phẩm đạt chất lượng cao, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Nếu được tổ chức, đãi ngộ và bồi dưỡng tốt, đội ngũ nhân lực này có thể lao
động với năng suất rất cao, tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt không
thua kém đồng nghiệp ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, nhân lực ngành
dệt may còn một số hạn chế sau: Chưa cân đối về cơ cấu, thiếu các loại lao
động có chất lượng cao, thiếu lực lượng đầu đàn, đầu ngành, nhân lực thiết kế
mẫu mốt, chế tạo sản phẩm mới còn quá ít. Lực lượng tiếp thị, kinh doanh
xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. Ngoài ra tiền lương công nhân và các chi
phí khác đang có xu hướng ngày càng tăng lên, cùng với những yếu kém trong
những khâu tổ chức, quản lý khiến cho hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu phát
sinh những chi phí không đáng có càng khiến cho ngành dệt may Việt Nam
gặp nhiều khó khăn và bất lợi trong khả năng cạnh tranh.
2. Nhóm hàng da giầy
*• Vé năng lực sản xuất:
Tính đến năm 2004 ngành da giầy chiếm 418 doanh nghiệp trong tổng
số 4920 doanh nghiệp của toàn ngành công nghiệp. Giầy dép các loại sản
" Theo báo cáo cùa Hiệp hội dệt may Việt Nam
12
nam 2004.
Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004-2005 Việt Nam và thế giới, trang 24
28
xuất trung bình hàng năm là 422,0 triệu đôi/năm (trong đó giầy thể thao
chiếm 53,4%, giầy nữ chiếm 16,9%, giầy vải chiếm 14,9%, còn lại là các
loại khác). Năng lực thuộc da đạt 22 triệu sqft. Với năng lực trên, năm 2004
ngành sản xuất được 320 triệu đôi giầy dép và 17000 sqft da thành phẩm.
Số lao động trong ngành là 124,5 nghìn người (tính đến năm 2004) .
l3
* Về khả năng cạnh tranh cửa sản phẩm:
Giá cả của các sản phẩm giầy thấp, có khả năng cạnh tranh. Giầy
thể thao giá trung bình từ 7,7-7,8 USD/đôi, giầy nữ giá trung bình từ 4,244,65 USD/đôi, giầy vải giá trung bình từ 3,06-5,08 USD/đôi; Giá da thuộc
của Việt Nam thấp nhưng chất lượng lại kém các nước nên làm giảm khả
năng cạnh tranh. Giá da thành phẩm biến động từ 14-19 ngàn đởng/spft tuy
thuộc vào loại da. Giá này thấp hơn giá trung bình của thế giới là 1,37
USD/sqft (của Italia là 2,5 USD/sqft; của úc là 1,5 USD/sqft; của Trung
Quốc và Nhật Bản là 1,17 USD/sqft). Tuy nhiên thì về chủng loại cũng như
chất lượng của nhóm ngành thì rất khó có khả năng cạnh tranh với các sản
phẩm khác trên thị trường khu vực và thế giới hiện nay. Lý do bởi các sản
phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam rất nghèo nàn về kiểu dáng, mẫu mã,
chủ yếu là phụ thuộc vào mẫu thiết kế của khách hàng nước ngoài. Trong khi
đó thì các sản phẩm nhập lậu trên thị trường thì quá nhiều lại đa dạng về
chủng loại, giá cả lại rẻ, mẫu mã, kiểu dáng cũng đẹp. Tuy chất lượng có kém
hơn so với hàng sản xuất trong nước nhưng lại hợp với túi tiền của người tiêu
dùng nên nếu các doanh nghiệp không có những chiến lược phù hợp thì trong
một thời gian ngắn nữa thôi các sản phẩm nhập ngoại sẽ chiếm lĩnh thị trường,
các sản phẩm trong nước sẽ rất khó có khả năng cạnh tranh.
* Về thị trường tiêu thụ:
a Thị trường xuất khẩu: Trong l o nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu giầy
dép lớn nhất thế giới, Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Hởng Rông và
Italia. K i m ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 2.22 tỷ USD, tăng 19,2% so với
năm 2002 (kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 1.846 tỷ USD), năm 2004 là
13
Thời báo kinh tế Việt Nam
, Kinh tí 2004-2005 Việt Nam
và thế giới, trang 22.