Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.73 MB, 87 trang )
60
thuộc quy m ô vừa và nhỏ, với khả năng tài chính, vốn, công nghệ, khả năng
thu thập thông tin thương mại, trình độ quản lý, kinh nghiệm làm ăn trên
u
thương trường quốc tế còn nhiề hạn chế.
Không chỉ vậy nề kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, sức cạnh
n
tranh của cả nề kinh tế còn yếu kém. Tham gia hội nhập là chấp nhận cạnh
n
tranh với các doanh nghiệp quy m ó lớn từ bên ngoài ở các thắ trường trong và
ngoài nước. Là nước đi sau, Việt Nam sẽ phải đối phó với nhiề thách thức
u
nhất là trong bối cảnh quá trình tự do hóa đang diễn ra với quy m ô rộng và sâu
sắc hơn. Do duy t ì chính sách bảo hộ kéo dài các doanh nghiệp Việt Nam đã
r
bắ tụt hậu khá xa so với các doanh nghiệp trong khu vực trong việc tạo dựng
choriêngmình các thế mạnh về cạnh tranh và cách tiếp cận thắ trường. Các
ngành như nông sản, công nghiệp ô tô, xe máy, trang thiết bắ gia dụng, sắt
thép, x i măng, sản phẩm cơ khí... sẽ phải chắu sức ép cạnh tranh gay gắt từ các
doanh nghiệp nhà nước khi rào cản bảo hộ bắ dỡ bỏ. Khả năng của các doanh
nghiệp Việt Nam được hưởng lợi từ việc xâm nhập thắ trường quốc tế sẽ rất
hạn chế nếu như bản thân doanh nghiệp không có sự cải tiến, thay đổi công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
Mặt khác nội lực các doanh nghiệp còn thấp kém. Đa số các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thắ trường
thế giới có quy m ô vừa và nhỏ, tiề lực về vốn và nhân lực rất hạn chế.
m
Muốn tăng cường xuất khẩu, hàng hóa của doanh nghiệp phải có sức cạnh
tranh trên thắ trường thế giới.
Nhìn chung, thiết bắ và công nghệ của các doanh nghiệp trong các
ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là lạc hậu so
với các nước. Ví dụ: trong nhiều doanh nghiệp vẫn còn sử dụng thiết bắ và
công nghệ của Liên Xô, Trung Quốc như chè, dệt... ngành dệt, may, da giày
chủ yếu là gia công, trong ngành dệt còn sử dụng thiết bắ của Trung Quốc
từ những năm 60, ngành điện tử và tin học mặc dù là ngành mới và có tốc
độ phát triển nhanh có điề kiện tiếp cận với công nghệ mới nhưng trình độ
u
công nghệ vẫn còn thấp, chủ yếu là lắp ráp CKD, chưa làm chủ được "kỹ
61
thuật nguồn" thì không được chuyển giao công nghệ. Theo các chuyên gia
đánh giá thì công nghệ trong lĩnh vực này lạc hậu so với các nước trong khu
vực khoảng 10 năm và một thế hệ 20 năm sau so với các nước phát triển trên
thế giói. Mặc dù nhiều doanh nghiệp cũng đã cố gắng đầu tư đổi mới trang
thiết bị và công nghệ cũng như nhận chuyển giao công nghệ mới nhưng mới
ọ từng phần từng công đoạn chứ chưa đồng bộ. Nguyên nhân chính là do
thiếu vốn, thêm vào đó cơ chế cho vay vốn chưa phù họp với đầu tư công
nghệ của các doanh nghiệp xuất khẩu như điều kiện thế chấp, mức lãi suất
cao, thời hạn cho vay ngắn. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp không có
khả năng đổi mới công nghệ, thiết bị một cách đồng bộ và toàn diện.
Đánh giá chung thì trình độ công nghệ của Việt Nam ọ mức
trung
bình thấp, phần lớn được đánh giá là lạc hậu từ 20-30 năm so với các nước
phát triển, đi sau công nghệ tiên tiến được sử dụng ọ các nước đang phát
triển từ 2 đến 3 thế hệ. Kỹ thuật tiên tiến mới được tập trung áp dụng trong
các ngành công nghiệp chủ đạo như: Khai thác dầu khí, khí đốt, viên thông,
điện tử, dệt may và chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
năm giữ. Trình độ công nghệ thấp, tỷ lên công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn
trong các ngành sản xuất dẫn đến tình trạng phế phẩm cao. Các nhà máy có
quy m ô nhỏ, sản xuất theo quy trình công nghệ khép kín nhưng thiếu sự
phân công hợp tác, chuyên môn hóa sản xuất giữa các doanh nghiệp. Việc
nhập khẩu thiết bị máy móc trình độ công nghệ cao từ các nước tiên tiến
tuy tạo khả năng cho các doanh nghiệp nói riêng về ngành công nghiệp của
Việt Nam nói chung, nâng cao chất lượng, năng lực và sức cạnh tranh của
sản phẩm hàng hóa, nhưng cùng với khả năng hạn chế về trình độ sử dụng
của đội ngũ công nhân và nguồn vốn còn hạn hẹp của các doanh nghiệp
Việt Nam thì cũng có thể sẽ tạo nguy cơ gia tăng khả năng lệ thuộc vào
công nghệ nước ngoài của Việt Nam. Và gánh nặng trả nợ vốn vay của các
doanh nghiệp ngày càng tăng. Đặc biệt nếu sản phẩm sản xuất ra m à không
giành được thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế thì không í doanh nghiệp
t
Việt Nam sẽ sa vào nguy cơ bị phá sản.
62
Chất lượng sản phẩm hàng hóa xuất khẩu chưa đáp ứng được theo tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng bộ
tiêu chuẩn ISO 9000, tiêu chuẩn HACCP cho nên nhiều chủng loai hàng
hóa của Việt Nam chưa đạt được theo tiêu chuẩn xuất khẩu quy định chung.
Theo câu lạc bộ doanh nghiệp ISO Việt Nam, cho đến 31/2/2003, cả nước
mới có 551 công ty và tổ chức có chứng chỉ ISO 9000, 21 doanh nghiệp đạt
tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000 nhưng mới chỉ có 3 doanh nghiệp
đạt tiêu chuẩn quản lý trách nhiệm xã hội và điặu kiện lao động SA 8000.
Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu nhất làm cho hiệu
quả xuất khẩu của các doanh nghiệp còn thấp, tăng trưởng không bền vững,
việc tăng khối lượng và mở rộng chủng loại mặt hàng xuất khẩu trên thị trường
thế giới gặp rất nhiều khó khăn. Điều này dẫn đến việc khai thác tiềm năng lợi
thế so sánh của Việt Nam với các nước khác đạt hiệu quả thấp, khối lượng
hàng hóa xuất khẩu còn nhỏ so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam cũng như
là việc đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của thị trường thế giới.
Hàng xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn
nguyên phụ liệu nước ngoài dẫn đến tì trạnh xuất khẩu hàng gia công,
nh
xuất khẩu gián tiếp qua trung gian nước ngoài. Các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam như giày dép, dệt may chủ yếu là hàng gia công và
nguyên liệu nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Đây là hai mặt hàng chiếm tỷ
lệ cao trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hàng năm, nhưng trên 8 0 %
khối lượng là hàng gia công cho nước ngoài và chủ yếu lại phải nhập khẩu
gián tiếp qua các trung gian nước ngoài.
Ví dụ như thực trạng hiện nay của ngành da giày là sản xuất hàng gia
công với giá rẻ, ngoại tệ trung bình thu về từ làm hàng gia công chỉ bằng
1 9 % k i m ngạch xuất khẩu với đơn giá bình quân chỉ đạt 5-10 USD/đôi. Do
đó, k i m ngạch xuất khẩu lớn nhưng hiệu quả thực tế thu được từ hai mặt
hàng này lại rất nhỏ. Sản phẩm qua chế biến không đáng kặ, một số sản
phẩm công nghệ nhẹ, nông sản, hàng gia công, chưa có sản phẩm tinh chế
và chế biến có tỷ lệ nội địa cao. Hơn nữa, sản phẩm về nông sản và thủy sản
63
còn đơn điệu, chủ yếu ở dạng sơ chế, chất lượng hàng thấp do máy móc
thiết bị chế biến hàng xuất khẩu chưa hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực nông
nghiệp, dẫn đến điều kiện chế biến chưa đảm bảo tốt các tiêu chuẩn vệ sinh
môi trường, quá trình bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch còn thấp và hệ số
thất thoát sau thu hoạch cao.
Hơn nữa hệ thống các kênh phân phối của doanh nghiệp vào thị trường
thế giới chưa được thực hiện tốt, bị phọ thuộc quá nhiều vào hệ thống kênh
phân phối của nước ngoài làm cho phương thức xuất khẩu và tiêu thọ sản
phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sang các khu vực thị trường quan
trọng còn đơn giản và yếu kém, các doanh nghiệp cũng như sản phẩm hàng
hóa của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có vị trí ổn định và phát triển trên
khu vực thị trường thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực đổi mới
trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo năng lực cạnh tranh trên
thị trường cũng như đạt mọc tiêu tồn tại và phát triển bền vững trên thương
trường của mình.
Tuy nhiên vượt lên trên tất cả vẫn là vấn đề con người. Rõ ràng là
những điểm yếu đó đều xuất phát từ chỗ là nguồn nhân lực của chúng ta
làm việc tại các doanh nghiệp chưa hội tọ đầy đủ những khả năng, kinh
nghiệm và tác phong làm việc tốt. Lý do không chỉ là họ chưa được đào tạo
một cách bài bản (vì đã có một số doanh nghiệp đã có những chiến lược
phát triển con người trong tổ chức) m à còn do những chính sách, cách thức
quản lý chưa phù hợp để có thể khuyến khích nhân viên làm việc, tận tọy
với công việc, không có tình trạng m à người ta thường gọi là "cha chung
không ai khóc". Không phủ nhận chúng ta có một nguồn nhân lực dồi dào,
cần cù, chăm làm nhưng nếu không có sự quản lý tốt thì những đức tính đó
không những không được phát huy m à còn bị thui chột đi theo năm tháng.
T ó m lại, thông qua việc đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam trong chương l i và với những cơ hội và thách thức m à các
doanh nghiệp Việt Nam có được cũng như đang phải đối mặt thì vấn đề cơ
bản và nổi cộm vẫn là con người trong doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện
64
nay đặc biệt là trong hoạt động kinh tế người ta thấy một sự chuyển từ
những thông số vật chất bên ngoài con người sang những vấn đề bên trong
con người, liên quan đến những hiểu biết và hoạt động sáng tạo của con ng
ười: Không ngừng nâng cao chất lượng sức lao động, những hình thức sử
dảng linh hoạt "nguồn lực tiềm năng" của con người... Tuy nhiên điều đó
chỉ được khai thác hiệu quả nếu những con người đó được làm việc trong
một môi trường có sự quản lý khoa học. Sử dảng hiệu quả nguồn lực con
người là một trong những mảc tiêu của quản trị nhân lực vì con người là
động lực chính cho doanh nghiệp duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh
của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Xã hội càng phức tạp, đa dạng và đông
đảo bao nhiêu thì vai trò của việc quản lý con người ngày càng quan trọng
bấy nhiêu. Một công ty hay một tổ chức nào dù có một nguồn tài chính
vững mạnh, nguồn t i nguyên phong phú với hệ thống máy móc thiết bị
à
hiện đại, cũng sẽ trở nên vô ích nếu không biết cách quản lý con người. Một
cung cách quản lý có khoa học sẽ tạo nên môi trường làm việc hiệu quả
trong công ty. Chúng ta không phủ nhận vai trò quan trọng của các lĩnh vực
à
khác như quản trị chiến lược, quản trị t i chính, quản trị sản xuất, quản trị
marketing, quản trị chất lượng.... Nhưng rõ ràng quản lý con người đóng vai
trò quan trọng nhất trong mọi tổ chức. Bất cứ cấp quản trị nào cũng phải
biết quản lý nhân viên của mình.
Quản lý con người quả là một lĩnh vực không dễ một chút nào. N ó là
khoa học nhưng đồng thời là một nghệ thuật _ nghệ thuật quản trị con
người. Là một khoa học, ai trong chúng ta cũng có khả năng nắm vững
được. Nhưng nó còn là nghệ thuật thì không phải ai cũng áp dảng được.
Nền kinh tế nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp có rất
nhiều cơ hội để phát triển, song cũng gặp không í khó khăn và nguy cơ.
t
Một trong những vấn đề khó khăn cần được chú trọng giải quyết đó là vấn
đề con người. V ớ i tư cách là yếu tố có tính chất quyết định đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào, đội ngũ lao động phải
được củng cố và hoàn thiện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tuy nhiên
65
thực tế hiện nay trong các doanh nghiệp, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn
tài nguyên nhân sự vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết, đặc biệt việc nâng
cao chất lượng công tác quản lý con người nhằm mục đích sử dụng có hiệu
quả đội ngũ lao động sẵn có, nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua sữc
mạnh của đội ngũ lao động.
Chính bởi những lý do đó m à tác giả xin đưa ra một số giải pháp nhìn
từ góc độ quản lý con người nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam như sau:
n. CÁC GIẢI PHÁP NHÌN TƯ GÓC ĐỘ QUẢN LÝ CON NGƯỜI NHẰM NÂNG
CAO NĂNG Lực CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Các giải pháp từ phía Nhà nước
Nhận thữc được sự cần thiế t phái phát triển nguồn nhân lực để đáp ững
nhu cầu của giai đoạn phát triển mới. ngay từ giữa thập kỷ cuối của thế kỷ
20, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối về vấn đề này.
Nghị quyết Hội nghị lẩn thữ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoa V U I
về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoa hiện đại hoa và nhiệm vụ năm 2000 đã chỉ rõ rằng "phải phát
triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nâng lực con người, yế tố cơ bản
u
của sự phát triển nhanh và bền vững" .
39
Tại Đ ạ i hội Đảng lần thữ IX, quan điểm này vẫn được Đảng nhấn
mạnh, trong đó, nguồn lực con người vẫn được coi là "yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" .
40
Điều cần thiết là Nhà nước cần có những định hướng rõ rệt các chính
sách về lao động, đào tạo và việc làm trong các doanh nghiệp nhằm khuyến
khích người lao động có kỹ thuật nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng nghiệp vụ và cải thiện các điều kiện lao động, yên tâm làm việc ở mọi lĩnh
vực khác nhau, hạn chế sự chênh lệch về tính hấp dẫn thu hút nguồn nhân
lực có kỹ năng và trình độ giữa các nhóm ngành doanh nghiệp khác nhau.
Đ C S V N (1996) vãn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần thữ VIII_NXBCTQG. Hà Nội. trang 19.
Đ C S V N (2001) vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lán thữ IX_NXBCTQG. Hà Nội.
66
Muốn đào tạo nguồn nhân lực thực sự có hiệu quả điều quan trọng là
Nhà nước phải đưa ra được những chính sách cụ thể và rõ ràng:
•
Có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng của người lao động trong
đó lấy kết quả và hiệu quả công việc là thước đo đánh giá quan trọng nhất.
•
Nhà nước cửn cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực, tửm vóc
và thể trạng của người Việt Nam nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hoa
giữa thể lực và trí tuệ con người Việt Nam so với khu vực và thế giới.
•
Cửn phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trường lao động. Điều này
đồng nghĩa với việc Nhà nước cửn quản lý tốt các khâu trong hệ thống
chính sách đào tạo và sử dụng phù hợp nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp Việt Nam bao gồm: Tuyển dụng, chính sách lao động, phân công
lao động, phân bổ nguồn lực, tiền lương, khen thưởng.
»
Nhà nước cửn phải đặc biệt chú ý tới xây dựng và thực thi chính sách
trọng dụng nhân tài. Bởi điều này tạo động lực để khuyến khích mọi người
chăm làm, chăm học, động viên tính tích cực xã hội của người lao động làm
cho họ thiện chí, cửu tiến, thích đổi mới, sáng tạo.
a
Cửn thiết phải có giải pháp gắn kết giữa đào tạo và phân bổ, sử dụng
nguồn nhân lực hợp lý. Ngoài ra cũng phải có cơ chế, chính sách đào tạo
nghề với sử dụng và giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và
xoa đói giảm nghèo.
•
Song song với việc Nhà nước khuyến khích đửu tư đổi mới công nghệ
thì tăng cường, chú trọng bồi dưỡng đào tạo nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cũng cửn được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế sắp tới.
»
Nhà nước cửn thiết phải có những biện pháp giáo dục, bồi dưỡng giá
trị đạo đức, tăng cường tính tổ chức, kỹ thuật, tinh thửn hợp tác, lương tâm
nghề nghiệp, tính cộng đồng, lòng tin và trách nhiệm công dân.
«
Giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoa truyền thống của dân tộc.
Tiếp thu nhanh những tinh hoa văn hoa nhân loại, giúp hình thành và phát
triển con người văn hoa Việt Nam.