Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.14 KB, 90 trang )
-
-
-
Chỉ ra cách thức, thủ đoạn của các nhà TB trong việc thực hiện giá trị thặng dư tối
đa: tăng cường độ lđ, kéo dài t/g lđ, tăng năng suất lđ
Những biểu hiện mới của quy luật giá trị thặng dư:
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đối với nền sx hiện đại
mà tỷ lệ lao động sống chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cấu trúc giá trị của hh. Máy móc
hiện đại ngày càng thay thế cho lao động sống hơn.
cấu trúc lao động có sự thay đổi cơ bản là: lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên
và thay thế cho lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó, lao động phức tạp giữ vai
trò quyết định trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng
dưới hình thức xuất khẩu tư bản. Do lợi thế về vốn và tư liệu sx mà các nước phát triển
chiếm được giá trị thặng dư siêu ngạch, nhờ đó ngày càng giàu có hơn, còn những nước
đang phát triển thì ngày càng nghèo khó đi.
Hình thức biểu hiện:
- Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là quy luật lợi nhuận bình quân
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền là quy luật lợi nhuận độc quyền
Câu 35: Hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong các giai đoạn phát triển của
CNTB:
-
-
CNTB tự do cạnh tranh: quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận
bình quân. Bởi vì cạnh tranh giữa các ngành đã dẫn đến sự hình thành lợi nhuận bình
quân. Thực chất LN bình quân chỉ là sự điều tiết lại, phân phối lại giá trị thặng dư giữa
các nhà TB kinh doanh trong các ngành khác nhau, trong đk cạnh tranh giữa các ngành
sx TBCN
CNTB độc quyền: quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật LN độc quyền. khi
đó, nguồn gốc của LN độc quyền bao gồm:
+ lđ ko công của người lđ trong các xí nghiệp độc quyền
+ 1 phần lđ ko công của người công nhân trong các xí nghiệp ngoài độc quyền,
thông qua quy luật giá trị độc quyền.
+ 1 phần giá trị thặng dư của các nhà TB nhỏ và vừa thua thiệt trong cạnh tranh
+ giá trị thặng dư của những người công nhân, người lao động ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc.
Như vậy, biểu hiện của quy luật giá trị thặng dự trong CNTb độc quyền là sự p/á
quyền lực thống trị và bóc lột của TB độc quyền.
39
Câu 36: Bản chất kinh tế của tiền công/ Hai hình thức cơ bản của tiền công
trong chủ nghĩa tư bản/ Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Trong quá trình sx, sau khi người công nhân làm việc cho nhà TB 1 khoảng thời
gian nhất định và sx ra 1 số lượng sp nhất định hoặc hoàn thành 1 khối lượng công việc
nhất định thì được nhà TB trả cho 1 lượng tiền nhất định được gọi là tiền công.
Sự biểu hiện ra bên ngoài như vậy của tiền công làm cho tiền công bị hiểu lầm là
giá cả của lđ.
K.Mác chỉ ra rằng: Tiền công không phải giá cả của lao động. Bởi vì:
+ Nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được vật hóa dưới một hình thức cụ thể
nào đó và điều kiện để lao động được vật hóa thì phải có tư liệu sản xuất và nếu người
công nhân có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa để bán mà không bán sức
lao động của mình.
+ Nếu lao động là hàng hóa thì sẽ dẫn tới mâu thuẫn lý luận, nlđ là hh phải được
trao đổi theo nguyên tắc ngang giá của quy luật giá trị khi đó nhà tư bản sẽ không thu
được giá thặng dư. Do vậy phủ nhận sự tồn tại của quy luật giá trị thặng dư. Ngược lại
nếu nhà tư bản thu được giá trị thặng dư thì lại phải phủ nhận sự tồn tại của quy luật giá
trị.
+ Nếu lđ là hàng hóa thì lđ phải được đo = t/g lđ XH cần thiết, khi đó sẽ gặp phải
mâu thuẫn logic là dùng lđ đo lđ.
=> Sự phân tích trên cho thấy: tiền công ko phải là giá cả của lđ.
Những mâu thuẫn trên chứng tỏ lao động không phải là hàng hóa.Từ sự phân tích
đó Mác đi đến bản chất đích thực của tiền công “Tiền công là sự biểu hiện bằng tiền
của giá trị sức lao động,hay giá cả của sức lao động nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài
như giá cả của lao động”.
Sở dĩ tiền công bị hiểu lầm là giá cả của lđ là do
Thứ nhất, đặc điểm của hàng hóa sức lao động là không bao giờ tách rời khỏi
người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là
lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.
Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có
tiền sinh sống, do đó bản thân cũng tưởng rằng mình đã bán lao động. Còn đối với nhà
tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái họ mua là lao động.
Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản
phẩm sản xuất ra, điều đó làm cho tiền công được biểu hiện ra như là giá cả của lđ
KL: Sự xuất hiện của tiền công đã xóa nhòa ranh giới của sự phân chia ngày lao
động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động
được trả công và lao động không được trả công. Do đó tiền công che đậy 1 cách kín đáo
bản chất bóc lột của tư bản.
Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Tiền công có hai hình thức là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo
sản phẩm.
40
-
-
Tiền công tính theo thời gian: là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều
phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân dài hay ngắn. Hình thức tiền công giờ,
ngày, tuần,tháng. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác nhất mức độ cao
hay thấp của tiền công.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào
số lượng sản phẩm hay số lượng bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra
hoặc là số lượng công viêc đã hoàn thành.
Mỗi sản phẩm được trả tiền công theo một đơn giá xác định. Đơn giá tiền công
được xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của một công nhân trong một
ngày nhân với số lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một
ngày, do đó về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo sản phẩm thực chất là biến
tướng của tiền công tính theo thời gian.
Tiền công tính theo sản phẩm, một mặt giúp nhà tư bản trong việc quản lý, giám
sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn, mặt khác kích thích công nhân lao
động tích cực, khẩn trương, sáng tạo tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao
hơn.
Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số tiền công mà người công nhân nhận được do bán sức
lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao
động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền công thực tế.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và
dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với
sự biến đổi của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Nhu cầu trung bình
của XH về hàng hóa dv tăng thì tiền công danh nghĩa tăng lên. Nếu giá cả các tư liệu
tiêu dùng và dịch vụ giảm khiến chogtri slđ giảm, tiền công DN giảm. Ngoài ra nó có
thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng
hóa sức lao động trên thị trường. Những nhân tố tác động ngược chiều đến giá cả slđ
khiến cho việc xác định tiền công danh nghĩa trở nên khó khăn.
Tiền công thực tế có xu hướng giảm do 2 NN: Tiền công danh nghĩa trên thực tế
tăng nhưng không theo kịp sự tăng của hh dv; Hiện tượng thất nghiệp diễn ra thường
xuyên phổ biến làm cho cung slđ lớn hơn cầu slđ
Tuy nhiên, C.Mác đã vạch ra xu hướng rằng xu hướng chung của sản xuất tư bản
chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền
công trung bình. Bởi lẽ trong quá trình sản xuát của chủ nghĩa tư bản tiền công danh
nghĩa có xu hướng tăng lên nhưng mức tăng của nó không theo kip mức tăng của giá cả
tư liệu tiêu dùng và dịch vụ. Đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên khiến
cung về lao động vượt quá cầu về lao động điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao
động dưới giá trị của nó, vì vậy tiền công thực tế có xu hướng hạ thấp.
41
Nhưng sự hạ thấp tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng vì có những
nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công như cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi
tăng lương, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nên nhu cầu về
sức lao động có chất lượng ngày càng tăng buộc giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao
động cũng như kích thích người lao động bằng lợi ích vât chất.
Câu hỏi 37: Nếu nhà tư bản trả tiền công cho công nhân đúng bằng giá trị sức lao động thì
người công nhân có bị bóc lột không? Vì sao? Cho ví dụ minh họa?( nếu trao đổi ngang giá thì
người công nhân có bị bóc lột không?)
-
-
-
Tiền công là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,hay giá cả của sức lao
động nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài như giá cả của lao động
Nếu nhà tư bản trả tiền công cho công nhân đúng bằng giá trị sức lao động thì
người công nhân vẫn bị bóc lột bởi vì:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, khi tiêu dùng nó có thể
tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó(giá trị mới = v + m lớn hơn giá trị của nó là
v). vì vậy nếu người lao động được trả tiền công đúng bằng giá trị sức lao động là v thì
nhà tư bản vẫn chiếm không giá trị thặng dư do người công nhân tạo ra.
Ngày lao động của người công nhân được chia thành hai phần là thời gian lao động tất
yếu (tạo ra giá trị bằng với giá trị sức lao động v) và thời gian lao động thặng dư( tạo ra
giá trị thặng dư m).vì vậy nếu nhà tư bản trả cho công nhân đúng bằng giá trị sức lao
động thì vẫn chiếm không phần giá trị thặng dư do thời gian lao động thặng dư của
công nhân làm thuê tạo ra.
Ví dụ chứng minh:
Giả định rằng:
Giá trị sức lao động (tiền công) trong một ngày của người công nhân được nhà tư bản
trả với giá là 3$ (sức lao động được mua bán theo đúng giá trị)
Ngày lao động là 12 giờ và được chia thành 6 giờ là thời gian lao động tất yếu và 6 giờ
thời gian lao động thặng dư
Trong 1 giờ lao động thì người công nhân tạo ra giá trị mới là 0.5$
với các giả định trên ta thấy:
Giá trị mới được tạo ra trong thời gian lao động tất yếu của người công nhân là =
6*0,5 = 3$ (bằng với giá trị sức lao động mà nhà tư bản trả cho công nhân trogn một
ngày lao động). Giá trị mới được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là = 6*0,5 =
3$ (phần giá trị do cộng nhân lao động trong thời gian lao thặng dư tạo ra và bị nhà tư
bản chiếm không)
vậy: Nếu nhà tư bản trả tiền công cho người công nhân theo đúng giá trị sức lao
động trong một ngày là 3$, thì ta thấy Nhà tư bản đã chiếm không 3$ là giá trị thặng dư
do lao động thặng dư của người công nhân tạo ra. Vì vậy nếu trao đổi theo đúng giá trị
sức lao động thì người công nhân vẫn bị bóc lột.
42
-
Câu hỏi 38: Phân biệt tích lũy tư bản với tích lũy nguyên thủy tư bản/Thực
chất và động cơ của tích lũy tư bản/ các nhân tố ảnh hưởng
Tích lũy nguyên thủy tư bản là quá trình giai cấp tư sản và địa chủ dùng quyền
lực tước đoạt ruộng đất và tư liệu sản xuất của những người nông dân, những người sản
xuất nhỏ biến họ thành những người mất hết ruộng đất, tư liệu sản xuất và tập trung tư
liệu sản xuất trong tay địa chủ và giai cấp tư sản.
Tích lũy tư bản: là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư hay là quá trình chuyển
hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản.
Phân biệt
Tích lũy nguyên thủy tư bản
Tích lũy tư bản
Thời gian thực Thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang Thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã được
hiện
hình thành
hình thành và phát triển
Mục đích
Là tạo ra tiềm lực về vốn đẩy Mở rộng sản xuất, tăng cường bóc
nhanh sự ra đời của phương lột giá trị thặng dư
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Nguồn
Tư liệu sản xuất của những Là giá trị thặng dư
người nông dân, người sản xuất
nhỏ
Biện pháp thực Dùng bạo lực
Dùng biện pháp kinh tế tư bản hóa
hiện
giá trị thặng dư
Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản
Thực chất của tích lũy TB
Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là theo đuổi giá trị thặng dư tối đa. Do
vậy, đặc trưng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất
mở rộng là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô năm sau lớn hơn năm trước. Muốn
vậy, nhà tư bản phải chuyển một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Quá trình
đó được gọi là tích lũy TB “Như vậy thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một
phần giá thặng dư thành tư bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư”. Sở dĩ
giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản là bởi vì nó đã có sẵn các yếu tố vật chất
của tư bản mới
Ví dụ:
Quy mô sản xuất năm thứ nhất: 80c + 20v + 20m (m’=100%)
Giả định rằng: nhà tư bản sử dụng 10m để chuyển hóa thành tư bản phụ thêm thì 10m
đươc phân bổ thành 8m + 2v khi đó
Quy mô sản xuất năm thứ hai : 88c + 22v + 22m (m’ = 100%)
Quy mô sản xuất năm thứ hai lớn hơn năm t1 và giá trị thặng dư được tạo ra năm
t2 nhiều hơn năm t1
Các kết luận được rút ra:
Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư, tư bản được
tích lũy ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tư bản. Tư bản ứng trước chỉ là giọt
nước trong dòng sông tích lũy tư bản.
43
Thứ hai, tích lũy tư bản chủ nghĩa làm cho quyền sở hữu tư bản chủ nghĩa biến
thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn do
trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, vì vậy về cơ bản không có chuyện người này chiếm
đoạt lao động của người khác. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nhờ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất mà nhà tư bản chiếm được một phần lao động không công của người
công nhân, sở hữu hợp pháp phần lao động không công đó mà không bị vi phạm quy
luật giá trị.
Động cơ của tích lũy tư bản
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng - quy luật kinh tế tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư. Để theo đuổi giá trị thặng dư tối đa, các
nhà tư bản không ngừng để mở rộng sản xuất, do đó không ngừng tích lũy TB. Mặt
khác cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng thực hiện quá trình tích lũy để
năng cao năng lực cạnh tranh của mình
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Do đó, quy mô của tích
lũy tư bản phụ thuộc vào sự phân chia giá trị thặng dư thành hai quỹ là quỹ tích lũy và
quỹ tiêu dùng.
Trường hợp khối lượng giá trị không đổi thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc
vào tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành hai quỹ là quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của
nhà tư bản. Đương nhiên khi tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ dành cho quỹ kia sẽ giảm
xuống.
Trong trường hợp tỷ lệ phân chia giữa hai quỹ đã được cố định thì quy mô tích lũy
tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này quy mô tích lũy
TB phụ thuộc bởi các nhân tố sau:
+ Nhân tố 1: trình độ bóc lột sức lao động
Ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư thì ta có : M = m’ x V
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với tỷ suất giá trị thặng dư do đó
để tăng khối lượng giá trị thặng dư các nhà tư bản cần nâng cao trình độ bóc lột sức lao
động bằng cách kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động, tăng cường độ lao động
hoặc cắt xén tiền công. PP này làm tăng m tuyệt đối, nhờ đó tăng quy mô tích lũy tư
bản.
Ví dụ minh họa:
Giả sử rằng nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 trong đó nhà tư bản sử
dụng 80 để mua tư liệu sản xuất và 20 để mua sức lao động hay c/v = 4/1 và tỷ lệ phân
chia khối lượng giá trị thặng dư thành hai quỹ là quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà
tư bản là (1:1) và không đổi.
Trường hợp 1 : giả sử Trình độ bóc lột của nhà tư bản là m’ =100% thì khi đó ta
có
Cơ cấu giá trị hàng hóa là: 80c + 20v + 20m (m’=100%)
44
h)
i)
-
-
Thì khi đó 20m được chia thành 10m cho quỹ tiêu dùng và 10m cho quỹ tích lũy
được nhà tư bản sử dụng để chuyển hóa thành tư bản phụ thêm thì 10m đươc phân bổ
thành 8m + 2v.
Trường hợp 2: giả sử trình độ bóc lột tăng từ 100% lên là m’ = 200% thì khi đó ta
có
Cơ cấu giá trị hàng hóa là : 80c + 20v + 40m(m’=200%)
Với tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành hai quỹ là (1:1) thì 40 m được chia
thành 20m là quỹ tiêu dùng của nhà tư bản và 20m là quỹ tích lũy và được nhà tư bản
sử dụng để chuyển hóa thành tư bản phụ thêm được phân bổ thành 16c + 4v.
Với tỷ lệ phân chia thành hai quỹ đã được cố định thì khi trình độ bóc lột của nhà
tư bản tăng lên theo đó khói lượng giá trị thặng dư được tạo ra cũng tăng lên và giá trị
thặng dư dành cho quỹ tích lũy tăng nhờ đó tăng quy mô tích lũy tư bản cũng được tăng
lên từ 10m lên 20m.
+ Nhân tố thứ 2: Trình độ năng suất lao động xã hội
Khi năng suất lao động xã hội tăng lên giá trị thặng dư tương đối tăng lên do đó khối
lượng giá trị thặng dư tăng lên làm tăng quy mô tích lũy tư bản.
Khi năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá trị của một đơn vị sản phẩm giảm xuống,
giá cả hàng hóa giảm, vẫn với 1 lượng tư bản nhà TB mua được nhiều TLSX và nhiều
SLĐ hơn, do đó quy mô tích lũy tư bản tăng lên.
Ví dụ minh họa
- Giả sử rằng nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 trong đó nhà tư bản sử
dụng 80 để mua tư liệu sản xuất và 20 để mua sức lao động hay c/v = 4/1 và tỷ lệ phân
chia khối lượng giá trị thặng dư thành hai quỹ là quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà
tư bản là (1:1) và không đổi và trình độ bóc lột của nhà tư bản là m’ =100% thì khi đó
ta có: Cơ cấu giá trị hàng hóa là: 80c + 20v + 20m
- 20m được chia thành 10m cho quỹ tiêu dùng và 10m cho quỹ tích lũy được nhà
tư bản sử dụng để chuyển hóa thành tư bản phụ thêm thì 10m đươc phân bổ thành 8m
+ 2v.
Giả sử nhà tư bản đầu tư vào lĩnh vực may mặc và 1 chiếc máy may có giá là 10$/cái
thì với lượng tư bản là 80$ nhà tư bản mua được 8 cái máy may.
Khi năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá trị của chiếc máy giảm xuống còn
8$/máy. Thì khi đó ta thấy cũng với lượng tư bản là 80$ nhưng lúc này nhà tư bản mua
được 10 cái máy may.
Như vậy khi năng suất lao động xã hội tăng làm cho giá trị của chiếc máy giảm từ 10$
xuống còn 8$ và điều đó đã giúp cho nhà tư bản với cùng một phần giá trị thặng dư
dành cho tích lũy nhà tư bản là 80$ mua được nhiều tư liệu sản xuất hơn từ 8 máy lên
10 máy điều này đã tạo điều kiện để nhà tư tăng quy mô tích lũy của mình
+ Nhân tố thứ 3: Chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất các yếu tố tư liệu sản xuất, máy móc , thiết bị, nhà xưởng,
… tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất nhưng chỉ dịch chuyển một phần giá trị
45
trong một chu kỳ sản xuất. Tuy nó bị hao mòn một phần giá trị nhưng trong quá trình
hoạt động nó vẫn có tác dụng như đủ giá trị. Hiện tượng đó được gọi là sự phục vụ
không công của máy móc, thiết bị cho nhà tư bản. Máy móc càng hiện đại thì chênh
lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càn lớn do đó nhà tư bản càng lợi
dụng được lao động quá khứ để tăng quy mô tích lũy tư bản cho mình.
Ví dụ: giả định rằng có một dây chuyền máy dệt có giá trị 1000$ và có thời gian
sử dụng là 10 năm. Do đó giá trị dịch chuyển vào sản phẩm trong mỗi chu kỳ sản xuất
là 100$/ lần (dưới dạng khấu hoa) và giả sử chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là 1 năm.
Năn thư nhất: giá trị tư bản còn trên máy là: 1000$
khấu hao 0$
Năm thứ hai:giá trị tư bản còn trên máy là: 900$
khấu hao 100$
Năm thứ ba: giá trị tư bản còn lại trên máy là:800$
khấu hoa 200$
Năm thứ 9 giá trị tư bản còn lại trên máy là 100$
khấu hao 900$
Vậy sau 10 năm thì nhà tư bản đã thu được đủ giá trị đầu tư ban đầu. Tuy nhiên
chiếc máy vẫn có thể tiếp tục sử dụng để sản xuất trong những năm sau đó thì khoảng
thời gian sau khi đã thu hồi đủ giá trị này chính là sự phục vụ không công của chiếc
máy cho nhà tư bản. Từ đó nhà tư bản có điều kiện tăng quy mô tích lũy tư bản của
mình.
+ Nhân tố 4: Quy mô tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột lao động không đổi thì quy mô thì khối lượng giá trị thặng dư
do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước đặc biệt
là bộ phận tư bản khả biến càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng
lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô tích lũy tư bản.Nếuquy mô tư bản ứng trước đặc
biệt là tư bản khả biến càng lớn thì khối lượng giá giá trị thặng dư càng nhiều. Do đó,
quy mô tích lũy tư bản càng tăng.
Ví dụ:
Giả sử: Nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 trong đó nhà tư bản sử dụng
80 để mua tư liệu sản xuất và 20 để mua sức lao động hay c/v = 4/1 và trình độ bóc lột
của nhà tư bản là m’ = 100%.
Quy mô sản xuất năm thứ nhất là: 80c + 20v +20m
Th1: Nếu bỏ thêm 200 nhưng cấu tạo hữu cơ vẫn như năm cũ có nghĩa là 200
được chia thành 160c + 40v thì ta có
Quy mô sản xuát năm thứ 2 là: 240c+60v+60m
Th2: Nhà tư bản cũng bổ sung thêm 1 lượng tư bản là 200 nhưng thay đổi kết cấu
hữu cơ là c/v= 3/2 thì khi đó 200 được chia thành 120c + 80v và với m’ không đổi thì
khi đó ta có
Quy mô sản xuất ở năm thứ 2 là: 200c + 100v + 100m
So sánh 2 trường hợp ta thấy nếu quy mô tư bản ứng trước tăng đặc biệt là tư bản
khả biến tăng càng lớn thì giá trị thặng dư thu được càng nhiều từ đó quy mô tích lũy
càng tăng
46
(*) Ý nghĩa của tăng tích lũy tư bản
Ý nghĩa lý luận:nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tích lũy tư bản đã vạch rõ
thực chất của tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư và động cơ thúc đẩy tích lũy
tư bản là quy luật giá trị thặng dư và quy luật cạnh tranh.
Ý nghĩa thực tiễn: đối với việt nam hiện nay muốn tăng tích lũy cho nôi bộ nền
kinh tế để phát triển và tăng trưởng bền vững thì phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực, nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải tiến kỹ thuật ứng dụng khoa
học công nghệ hiện đại vào sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất.
Câu 39: Tích tự tư bản và tập trung tư bản, so sánh, mối quan hệ
Tích tụ tư bản
- Khái niệm: Tích tụ tư bản là quá trình làm tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng
cách tư bản hóa giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó. Tích tụ tư bản là hệ quả
trực tiếp của tích lũy tư bản được áp dụng cho một doanh nghiệp cụ thể.Nói cách khác
khi tích lũy tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt trong một doanh nghiệp thì được
gọi là tích tụ tư bản.
- Tích tụ TB được thực hiện trên các cơ sở sau đây:
+ Một mặt, do nhu cầu của tái sx mở rộng, để theo đuổi giá trị thặng dư tối đa mà
nhà TB phải thực hiện tích tụ TB
+ Mặt khác, sự tăng lên ko ngừng khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình sx tạo
ra tiền đề trong quá trình tích tụ TB
Tập trung tư bản
-
Khái niệm: là quá trình làm tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất các
tư bản cá biệt đã có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt mới lớn hơn.
Trong quá trình tập trung TB thì cạnh tranh và tín dụng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy quá trình tập trung tư bản
+ Cạnh tranh sẽ dẫn kết quả: khoảng cách tư bản cá biệt tự nguyện liên kết hoặc
chúng bắt buộc phải sát nhập với nhau để tạo thành một tư bản cá biệt mới lớn hơn.
+ Tín dung có vai trò thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay nhà tư
bản. ví dụ như ông tư bản A có 300 tỷ usd nhưng ông ta muốn đầu tư để mua trang thiết
bị máy móc mới. Do đó ông ta cần có vốn là 800 tỷ usd. Thông qua công cụ tín dụng
ông ta có thể vay mượn để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong XH, nhờ đó làm
tăng quy mô tư bản cá biệt của ông ta lên.
So sánh tích tụ tư bản và tập trung tư bản
Giống nhau: đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt
Khác nhau:
Thứ nhất, Tích tụ tư bản vừa làm tăng quy mô của tư bản cá biệt vừa làm tăng quy mô
của tư bản xã hội; còn tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt mà
không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.
Ví dụ:
47
-
-
Giả sử tư bản xã hội gồm ba tư bản cá biệt là A + B + C Trong đó
Tư bản cá biệt A = 100 đơn vị
Tư bản cá biệt B = 150 đơn vị
Tư bản cá biệt C = 200 đơn vị
Quy mô của tư bản xã hội = 100đơn vị + 150đơn vị + 200đơn vị = 450 đơn vị
Giả sử sau khi thực hiện tích tụ tư bản thì:
Quy mô tư bản cá biệt A tăng lên là : 120 đơn vị
Quy mô tư bản cá biệt A tăng lên là : 180 đơn vị
Quy mô tư bản cá biệt A tăng lên là : 250 đơn vị
Khi đó quy mô của tư bản xã hội sẽ tăng lên = 550 đơn vị
Ta thấy sau khi thực hiện tích tụ tư bản thì cả quy mô tư bản cá biệt và quy mô tư
bản xã hội đều tăng lên.
Ví dụ:
Giả sử tư bản xã hội gồm ba tư bản cá biệt là A + B + C Trong đó
Tư bản cá biệt A = 100 đơn vị
Tư bản cá biệt B = 150 đơn vị
Tư bản cá biệt C = 200 đơn vị
Quy mô của tư bản xã hội = 100đơn vị + 150đơn vị + 200đơn vị = 450 đơn vị
Sau khi thực hiện tập trung tư bản thì
Một tư cá biệt mới là D = A + B = 250 đơn vị
Khi đó quy mô tư bản xã hội = D+ C = 250 đơn vị + 200đơn vị = 450 đơn vị
Sau khi thực hiện tập trung tư bản thì đã làm tăng quy mô của tư bản cá biệt mà
không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.
Thứ hai, nguồn gốc để tích tụ tư bản là giá trị thăng dư, xét về mặt đó nó phản ánh trực
tiếp mối quan hệ giữa nhà tư bản với ng lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao
động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn tập trung tư bản có nguồn gốc từ
các tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sát nhập.
Xét về mặt đó nó phản ánh trực tiếp mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản, đồng
thời nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
Mối quan hệ giữa tích tụ tư bản và tập trung tư bản
Tích tụ tư bản và tập trung tư bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và điều đó
được thể hiện cụ thể như sau:
Tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt từ đó làm tăng sức cạnh tranh của tư
bản cá biệt nhờ đó mà thúc đẩy quá trình tập trung tư bản.
Ngược lại tập trung tư bản làm tăng nhanh chóng quy mô của tư bản cá biệt từ đó tăng
khả năng sản xuất ra giá trị thặng dư nhờ đó mà thúc đẩy quá trình tích tụ tư bản nhanh
hơn. Mặt khác tập trung tư bản giúp các nhà tư bản có thể vận dụng nhanh chóng các kỹ
thuật tiến tiến vào sản xuất nhờ đó làm tăng quy mô sản xuất ra giá trị thặng dư.
48
a)
b)
c)
-
-
Câu 40: Cấu tạo hữu cơ
Khi nghiên cứu sự vận động của tư bản thì Mác không chỉ nghiên cứu về sự vận
động về mặt lượng của tư bản mà còn nghiên cứu về sự biến đổi cấu tạo bên trong của
nó. Để nghiên cứu được sự biến đổi Mác đưa ra phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Phạm trù cấu tạo hữu cơ của TB được xây dựng trên 2 khái niệm đó là: cấu tạo kỹ
thuật của TB và cấu tạo giá trị của TB
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản
Nếu xét về mặt hình thái hiện vật thì mỗi tư bản đều bao gồm hai bộ phận cấu
thành là tư liệu sản xuất và sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số
lượng sức lao động cần thiết để sử dụng được các tư liệu sản ấy trong quá trình sản xuất
được gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật của tư bản được đo bằng chỉ
tiêu SL TLSX/1CN
Ý nghĩa: phạm trù cấu tạo kỹ thuật của tư bản nó phản ánh trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất hay nói cách khác cấu tạo kỹ thuật của tư bản nó bị chi phối bởi trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cấu tạo giá trị của tư bản
Xét về hình thái giá trị thì mỗi tư bản đều bao gồm tư bản bất bất biến (c) và tư
bản khả biến (v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị tư bản bất biến và số lượng giá trị tư bản
khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất được gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Ví dụ: giả sử rằng một tư bản ứng trước có quy mô là 1000$, trong đó 800$ là tư
bản bất biến và 200$ là tư bản khả biến khi đó cấu tạo giá trị của tư bản đó sẽ là: c/v =
800/200 = 4/1 = (4:1)
Cấu tạo hữu cơ của TB
Giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau và mối quan hệ đó được phản ánh bằng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Khái niệm: cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ
thuật của tư bản quyết định. Nó phản ánh sự biến đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Ý nghĩa của cấu tạo hữu cơ:
Trong quá trình vận động và phát triển của nền sản xuất tư bản. Cấu tạo kỹ thuật của tư
bản không ngừng tăng lên kéo theo cấu tạo giá trị của tư bản cũng tăng làm cho cấu tạo
hữu cơ của tư bản ngày càng tăng lên.
Cấu tạo hữu cơ tăng lên thể hiện ở chỗ: Tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, tư
bản khả biến tăng tuyệt đối giảm tương đối, sự giảm tương đối của tư bản khả biến làm
cho cầu về lao động có xu hướng giảm tương đối. Đó là nguyên nhân gây ra tình trạng
thất nghiệp phổ biến.
VD: tối đa giá trị thặng dư (m max), TB mở rộng sx làm cho (C/v) tăng, v giảm
=> thất nghiệp
49