1. Trang chủ >
  2. Cao đẳng - Đại học >
  3. Chuyên ngành kinh tế >

CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 103 trang )


6



có thể thấy mỗi mắt xích còn có thể được hình thành và mở rộng từ nhiều chuỗi nhỏ.

Cụ thể, lấy bất kì doanh nghiệp, tổ chức nào đó trong chuỗi làm quy chiếu, nếu xét đến

các hoạt động trước nó – dịch chuyển nguyên liệu đến – được gọi là ngược dòng;

những tổ chức ở phía sau doanh nghiệp – dịch chuyển nguyên, vật liệu hay thành phẩm

ra ngoài – được gọi là xuôi dòng.

Các hoạt động ngược dòng được dành cho các nhà cung cấp. Một nhà cung cấp

dịch chuyển nguyên vật liệu trực tiếp đến nhà sản xuất là nhà cung cấp một; nhà cung

cấp đảm nhiệm việc dịch chuyển nguyên vật liệu cho nhà cung cấp cấp một được gọi là

nhà cung ứng cấp hai, cứ ngược dòng như vậy sẽ đến nhà cung cấp 3 rồi đến tận cùng

sẽ là cung cấp gốc.



Hình 1.1: Cấu trúc chuỗi cung ứng

(Nguồn: Souviron, “Strategic Supply Chain Planning”, 2006)



1.1.3.



Các thành phần cơ bản của chuỗi cung ứng



Theo Lambert và cộng sự (2005) cho rằng một chuỗi cung ứng về cơ bản, bao

gồm 5 thành phần cơ bản bao gồm nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán

lẻ và người tiêu dùng.



7



Hình 1.2: Các thành phần cơ bản trong chuỗi cung ứng

(Nguồn:Lambert và cộng sự,”An Evaluation of process oriented supply chain frameworks”,2005)



Xét theo sơ đồ trên, ta có thể thấy hình ảnh sản phẩm dịch chuyển từ nhà cung

cấp lần lượt qua nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ và cuối cùng đến khách hàng

dọc theo chuỗi cung ứng; cùng chiều với dòng vật chất. Song song và ngược chiều với

nó là chiều của dòng thông tin, tài chính xuất phát từ phía người tiêu dùng cho đến nhà

cung cấp là điểm cuối cùng. Trong thực tế, nhà sản xuất có thể nhập nguyên liệu từ vài

nhà cung cấp và thành phẩm tạo ra được nhiều nhà phân phối khác nhau phân phối

tiếp. Chính vì vậy, hầu hết các chuỗi cung ứng đều là các mạng lưới (network) liên kết,

phối hợp chặt chẽ với nhau.

Dựa trên cách tiếp cận của đề tài cùng với các nghiên cứu đã nêu, một chuỗi

cung ứng có ít nhất 3 tác nhân cơ bản, gồm: nhà cung ứng, nhà sản xuất, nhà phân

phối/nhà bán lẻ/khách hàng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau.

1.1.4.



Mối quan hệ giữa chuỗi cung ứng với chuỗi giá trị



Theo Giáo sư Michael Porter – người được xem là cha đẻ của khái niệm chuỗi

giá trị, công bố nó lần đầu tiên vào thập niên 1980 trong tác phẩm của mình “Lợi thế

cạnh tranh”, biện luận rằng chuỗi giá trị của một doanh nghiệp bao gồm các hoạt động



8



chính và các hoạt động bổ trợ tạo nên lợi thế cạnh tranh khi được cấu hình một cách

thích hợp. Cụ thể, các hoạt động chính là những hoạt động hướng đến việc chuyển đổi

về mặt vật lý và quản lý sản phẩm hoàn thành để cung cấp cho khách hàng. Ngoài ra,

thành tố quan trọng và then chốt nhất của chuỗi giá trị ở đây, chính là yếu tố tạo ra “giá

trị” cho khách hàng và mang lại lợi ích tài chính cho doanh nghiệp.

Trong khi đó, chuỗi cung ứng chú trọng vào việc quản trị một cách hiệu quả

dòng chảy nguyên vật liệu/sản phẩm, dịch vụ, thông tin từ nhiều nguồn cung khác đến

với khách hàng cuối cùng; với mục tiêu trọng tâm là cắt giảm chi phí và giảm thiểu

lãng phí. Chính vì thế, thời điểm đầu nhiều quan điểm đều cho rằng, sự khác nhau cơ

bản giữa chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị đó là chuỗi giá trị có vai trò bổ sung thêm giá

trị vào sản phẩm và hàng hóa được dịch chuyển trong toàn chuỗi; còn trong chuỗi cung

ứng, thì sản phẩm, hàng hóa về cơ bản không được gia tăng giá trị trong suốt quy trình.

Tuy nhiên, theo Andrew Feller và cộng sự (2006) thì hiện tại thuật ngữ chuỗi

cung ứng đã được thay đổi, phát triển dẫn đến hình thành nên chuỗi cung ứng thế hệ

thứ 3, với nội dung căn bản: tập trung vào sự quan tâm và hài lòng của khách hàng và

sự đồng bộ hóa chuỗi cung ứng định hướng vào khách hàng - những người có sức

mạnh để lôi kéo giá trị. Mô tả này phản ánh sự phát triển của chuỗi cung ứng theo

hướng đồng bộ hóa dòng giá trị và dòng cung ứng.

Chính sự phát triển của thuật ngữ chuỗi cung ứng này, đã tạo ra sự tương đồng

giữa khái niệm chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng như:

- Chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng đều thể hiện định hướng phát triển hay mở

rộng doanh nghiệp, trong quá trình sản xuất kinh doanh bằng cách liên kết với các

doanh nghiệp theo quá trình vận hành của dòng sản phẩm, dịch vụ theo một định

hướng nhất định.

- Chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng đều kết nối các công ty thành mạng lưới có sự

tương tác với nhau để cung cấp hàng hóa và dịch vụ.

Mặt khác, tạo ra một chuỗi giá trị thuận lợi phải biết liên kết yêu cầu giữa những



9



gì khách hàng muốn (chuỗi nhu cầu) và những gì phải sản xuất (chuỗi cung ứng).

Trong khi chuỗi cung ứng tập trung vào giảm chi phí và tối ưu hóa hiệu suất hoạt động,

thì chuỗi giá trị tập trung vào quá trình cải tiến, phát triển sản phẩm và hoạt động

marketing.

Để tối đa hóa giá trị trong môi trường năng động, chúng ta phải đồng bộ hóa

dòng cung ứng và dòng giá trị từ khách hàng mà có sự thay đổi nhanh chóng về thị

hiếu, sở thích và nhu cầu. Chúng ta không nên suy nghĩ rằng 2 chuỗi này là 2 thực thể

khác nhau mà nên tích hợp cả hai (vì quản trị chuỗi cung ứng thế hệ thứ 3 đã phát triển

ra chuỗi cung ứng có liên kết đến nhu cầu). Chính vì vậy, các công ty cần phải học

được cách tích hợp đầy đủ và đồng thời dòng giá trị và dòng cung ứng trong hoạt động

kinh doanh của mình.

1.2. Quản trị chuỗi cung ứng

1.2.1.



Định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng



Dựa theo cách tiếp cận nghiên cứu về chuỗi cung ứng đã đề cập, để các hoạt

động trong chuỗi diễn ra nhịp nhàng và hiệu quả, hoạt động quản trị chuỗi cung ứng rất

cần thiết trong bất kỳ công đoạn nào trong chuỗi. Cho đến nay, đã có rất nhiều nghiên

cứu với các quan điểm khác nhau về định nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng, có thể kể

đến như:

 Theo Viện quản trị cung ứng (2000), mô tả quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết

kế và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trị cho các tổ chức để đáp ứng

nhu cầu thực sự của khách hàng cuối cùng. Sự phát triển và tích hợp nguồn lực

con người và công nghệ then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành công.

 Theo Hội đồng chuỗi cung ứng (2003), thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản

lý cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp,

kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân

phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng.

 Theo Chirstopher (2005) thì quản trị chuỗi cung ứng là quản lý các mối quan hệ



10



nhiều chiều giữa các nhà cung cấp và khách hàng, nhằm phân phối đến khách

hàng giá trị cao hơn với chi phí ít hơn trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

 Theo Mentzer và cộng sự (2001) định nghĩa quản trị chuỗi cung ứng là một hệ

thống, sự hợp tác mang tính chiến lược của các chức năng kinh doanh truyền

thống và các sách lược kết hợp trong các chức năng kinh doanh trong phạm vi

một doanh nghiệp cụ thể, xuyên suốt hoạt động kinh doanh trong phạm vi chuỗi

cung ứng nhằm cải thiện việc thực hiện mang tính dài hạn của các doanh nghiệp

nói riêng và của toàn bộ chuỗi cung ứng nói chung.

Tóm lại, quản trị chuỗi cung ứng là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát

có hiệu lực, hiệu quả quy trình sản xuất, chu chuyển và dự trữ hàng hóa, dịch vụ,...

giữa các thành viên của chuỗi cung ứng từ điểm đầu đến điểm cuối cùng, nhằm thỏa

mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp đang hướng tới.

1.2.2.



Phân biệt Quản trị chuỗi cung ứng và Logistics



Theo Larson và cộng sự (2007), thì Quản trị chuỗi cung ứng (SCM) trên nhiều

khía cạnh xuất phát từ Logistics. Chính vì vậy, quan điểm “truyền thống” xem SCM

như là một phần của Logistics, hỗ trợ cho Logistics. Quan điểm “tái định vị” lại cho

rằng logistics nên được đặt tên lại bởi một thuật ngữ chính xác hơn là quản trị chuỗi

cung ứng. Mặt khác, quan điểm “hợp nhất” xem logistics là một phần của một thực thể

rộng lớn hơn, SCM. Cuối cùng, quan điểm “kết hợp” đề xuất việc có một phần giao

nhau giữa Logistics và SCM, nhưng mỗi khái niệm lại có một phần khác tách rời và

phân biệt.



11



Hình 1.3: Bốn quan điểm về Logistics và SCM

(Nguồn: Larson và cộng sự,“SCM: the four perspective models”,2007)



Trong luận văn nghiên cứu này, tác giả ủng hộ trường phái thứ 4 là theo hướng

“kết hợp” khi xét đến mối quan hệ giữa SCM và Logistics. Cụ thể, theo GS.TS Đoàn

Thị Hồng Vân và cộng sự (2010) cho rằng “Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí và

thời điểm, vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của chuỗi cung ứng

cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.

Qua đó cho thấy, so với khái niệm quản trị chuỗi cung ứng thì khái niệm logistics theo

nghĩa rộng gần như tương đương, nhưng cần chú ý: Logistics nhấn mạnh đến tính tối

ưu của quá trình, còn chuỗi cung ứng chỉ nói đến quá trình, đến các mối liên kết. Mặt

khác, SCM còn bao gồm cả quá trình logistics bên ngoài doanh nghiệp, bao gồm cả

khách hàng và các nhà cung cấp cấp 1, cấp 2.... do đó SCM là khái niệm rộng hơn

logistics của một doanh nghiệp. Từ những trình bày ở trên cho thấy, Logistics có một

phần nằm trong SCM và ngược lại, SCM cũng có một phần nằm trong Logistics.

1.3. Những nội dung chính trong quản trị chuỗi cung ứng

Cho đến nay, đã có rất nhiều nghiên cứu về nội dung, tiến trình quản trị chuỗi

cung ứng, dưới đây là khái niệm được được tác giả F. Javad (2006) tổng hợp lại theo

bảng sau.



12



Bảng 1.1: Tổng hợp các quan điểm về nội dung của quản trị chuỗi cung ứng

Viện quản trị chuỗi

cung ứng (2000)



Quản trị mối quan hệ với khách hàng, quản trị dịch vụ khách hàng, quản trị

mối quan hệ với nhà cung cấp, quản trị nhu cầu, quản trị sản xuất, phát triển

và kinh doanh sản phẩm, tiến trình thực hiện đơn hàng và tiến trình thu hồi.



Hội đồng chuỗi cung

ứng (SCOR) (2003)

Stravistava và cộng sự

(1999)

Boversox và cộng sự

(1999)



Lập kế hoạch chuỗi cung ứng, tìm nguồn cung cấp, sản xuất, phân phối và

thu hồi.

Quản trị mối quan hệ với khách hàng, quản trị phát triển sản phẩm và quản

trị chuỗi cung ứng.

Lập kế hoạch, thu mua, sản xuất, phân phối, thiết kế và thiết kế lại sản

phẩm, quản trị năng lực, tiến trình thiết kế và thiết kế lại, đo lường.



(Nguồn: F. Javad, “A New Classification of Supply Chains Based on Resourced Based View in

Automotive Industry”, 2006)



Mỗi quan điểm ở trên, thì đều có ưu và nhược điểm riêng nhưng chỉ có hai

nghiên cứu của Viện quản trị chuỗi cung ứng và của Hội đồng chuỗi cung ứng về mô

hình SCOR được áp dụng phổ biến và rộng rãi trong môi trường kinh doanh. Theo

quan điểm riêng của tác giả, giữa 2 mô hình tuy có những khía cạnh tương đồng,

nhưng mô hình SCOR thể hiện cách tiếp cận có hệ thống, rõ ràng và thuận tiện cho

phân tích hơn. Chính vì vậy, trong luận văn này, tác giả xin lựa chọn mô hình tham

chiếu hoạt động quản trị chuỗi cung ứng đơn giản hóa hay còn gọi là mô hình SCOR

để phân tích.



Hình 1.4: Sơ đồ tiến trình hoạt động chuỗi cung ứng theo mô hình SCOR

(Nguồn: F. Javad, “A New Classification of Supply Chains Based on Resourced Based View in

Automotive Industry”, 2006)



13



Mô hình SCOR được phát triển nhằm cung cấp phương pháp chuẩn cho hoạt

động quản trị chuỗi cung ứng và chú trọng vào năm quy trình có thể đo lường được

như sau: Lập kế hoạch (Plan)  Tìm nguồn cung cấp (Source)Sản xuất (Make)

Phân phối (Deliver)Thu hồi (Return).

1.3.1.



Lập kế hoạch



Lập kế hoạch là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất của toàn bộ quy

trình quản trị chuỗi cung ứng. Lập kế hoạch là việc cân đối nguồn lực với nhu cầu và

xây dựng một kế hoạch tổng thể cho tiến trình cung ứng của toàn chuỗi. Cụ thể, việc

lập kế hoạch chuỗi cung ứng là xây dựng nên một kế hoạch tổng thể bao gồm: kế

hoạch kinh doanh, kế hoạch sản xuất, kế hoạch thu mua, kế hoạch tài chính và kế

hoạch xuất hàng. Trong quá trình lập kế hoạch, phần trọng yếu nhất đó là công tác dự

báo nhu cầu khi doanh nghiệp chưa có dữ liệu thống kê về kế hoạch sản xuất và định

mức sử dụng vật tư để sản xuất. Dự báo là báo trước khả năng sẽ xảy ra trong tương lai

một cách có cơ sở. Như vậy, dự báo nhu cầu sản phẩm là dự kiến, đánh giá nhu cầu

trong tương lai của các sản phẩm, giúp doanh nghiệp xác định được chủng loại và số

lượng sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) cần có trong tương lai.

Những quyết định liên quan đến việc quản trị chuỗi cung ứng, được dựa trên các

dự báo xác định nhu cầu của khách hàng về sản phẩm ở các khía cạnh sau: chủng loại,

số lượng, thời điểm cần hàng. Công đoạn dự báo nhu cầu đã trở thành nền tảng cho kế

hoạch sản xuất nội bộ, và hợp tác của doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.

Dự báo tốt giúp doanh nghiệp có được kế hoạch chuỗi cung ứng chính xác, và từ đó

xây dựng được mức dự trữ tối ưu giúp giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất và nâng

cao hiệu quả kinh doanh.

1.3.2.



Tìm nguồn cung cấp



Để tối ưu hóa hoạt động của doanh nghiệp, công tác mua hàng cho sản xuất là

một khâu trọng yếu, vì thế nhiệm vụ đặt ra là phải tìm kiếm những nguồn cung cấp



14



tiềm năng, so sánh giá cả rồi sau đó đặt hàng từ nhà cung cấp có chi phí thấp nhất.

Hoạt động tìm nguồn cung cấp theo mô hình SCOR bao gồm 3 công đoạn chính như

sau: Tuyển chọn nhà cung cấp, Đàm phán hợp đồng và Mua hàng.

 Tuyển chọn nhà cung cấp

Là hoạt động tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho doanh nghiệp

trên nguyên tắc đúng hàng, đúng chi phí và đúng thời điểm. Tìm kiếm đúng nguồn

cung cấp giúp doanh nghiệp giảm tối đa chi phí cho nguyên vật liệu và đảm bảo sự ổn

định cho những hoạt động khác. Tùy theo từng điều kiện của từng giai đoạn, như chiến

lược kinh doanh, tài chính, nhu cầu thị trường....mà doanh nghiệp sẽ chọn những nhà

cung cấp phù hợp.

 Đàm phán hợp đồng

Hiện nay, các công ty có xu hướng đi thuê ngoài các nhà cung cấp sản xuất các

bộ phận của sản phẩm, vì thế hợp đồng cung cấp được soạn thảo tỉ mỉ và hợp lý sẽ

mang lại hiệu quả lớn cho các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, khi tham gia đàm

phán kí kết hợp đồng mua nguyên vật liệu trực tiếp ta phải lưu ý đến yêu cầu chính xác

về chất lượng, hỗ trợ kĩ thuật tốt và dịch vụ tốt. Công tác đàm phán hợp đồng cần chú

trọng đến thời hạn và địa điểm giao hàng, thời hạn thanh toán để tối thiểu hóa chi phí.

Để đạt hiệu quả mua hàng tối ưu, các nhà cung cấp cần có khả năng thiết lập hệ thống

liên kết điện tử nhằm mục đích nhận đơn hàng, gửi thông báo giao hàng, gửi hóa đơn,

nhận thanh toán... một cách nhanh chóng và tiết kiệm thời gian.

 Mua hàng

Mua hàng là những hoạt động thông thường, liên quan đến việc phát những đơn

hàng đặt mua nguyên vật liệu trực tiếp hoặc mang tính chiến lược để sản xuất ra sản

phẩm và các sản phẩm gián tiếp (bảo hành, sửa chữa, vận hành) được công ty sử dụng



15



hàng ngày. Người mua đưa ra những quyết định mua hàng, liên hệ với người bán rồi

tiến hành đặt hàng. Mặt khác, trong sản xuất, việc mua nguyên vật liệu và thuê gia

công ngoài (outsourcing) được các doanh nghiệp sử dụng như là một công cụ để cắt

giảm chi phí một cách nhanh chóng. Lựa chọn thuê gia công ngoài, doanh nghiệp sản

xuất và các nhà cung cấp có thể có các lợi thế như: Nhà cung cấp có lợi thế kinh tế theo

quy mô khi nhận được nhiều đơn hàng từ nhiều doanh nghiệp; doanh nghiệp sản xuất

thì phân tán được rủi ro cho các nhà cung cấp khi lượng cầu biến động,... Tuy nhiên,

những lợi ích của việc thuê gia công ngoài cũng thường đi kèm với các rủi ro như mất

khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mất động lực để tìm tòi, cải tiến, hay có thể gây

nên sự xung đột mục tiêu giữa nhà cung cấp và doanh nghiệp.

1.3.3.



Sản xuất



Sản xuất là khâu tiếp theo và không thể thiếu để chuyển đổi các yếu tố đầu vào

thành đầu ra theo yêu cầu của khách hàng. Quá trình sản xuất là tổ hợp từ thiết kế sản

phẩm, lên lịch trình, sản xuất tạo thành phẩm, đóng gói, kiểm tra và chuẩn bị giao

nhận. Với những chiến lược khác nhau, doanh nghiệp sẽ có những quyết định sản xuất

khác nhau như sản xuất để tồn kho, sản xuất theo đơn hàng có sẵn. Đây là khâu vô

cùng quan trọng, do vậy doanh nghiệp cần giám sát chặt chẽ các tiêu chuẩn thành phẩm

và hiệu suất làm việc của nhân công hay máy móc. Việc quản lý tốt hiệu suất, sẽ giúp

doanh nghiệp giảm chi phí đáng kể, và đảm bảo cho việc cung ứng đúng sản phẩm như

khách hàng mong đợi.

1.3.4.



Phân phối



Chuỗi cung ứng sẽ không thành công nếu như thiếu đi hoạt động phân phối. Phân

phối là nỗ lực của nhà sản xuất nhằm vận chuyển hàng hóa đến nơi có nhu cầu gồm

hai hoạt động chính là, quản lý đơn hàng và vận chuyển hàng hóa đến khách hàng.

Hiện nay phổ biến với ba dạng phân phối: trực tiếp (hàng hóa sẽ trực tiếp từ nhà sản

xuất đến người tiêu dùng), trung tâm phân phối (hàng hóa sẽ do công ty logistic hay



16



các nhà bán buôn, bán lẻ chịu trách nhiệm đưa đến người tiêu dùng), cross - docking

(là hình thức hàng hóa được tập kết tại một điểm và giao đến cho khách hàng ngay sau

đó không thông qua kho của doanh nghiệp). Để phân phối đạt hiệu quả, cần có sự phối

hợp xuyên suốt giữa bộ phận bán hàng, bộ phận sản xuất và bộ phận giao hàng.

1.3.5.



Thu hồi



Đây là khâu chỉ xuất hiện khi chuỗi cung ứng gặp vấn đề và thường ở hai dạng

chính: xử lý bồi hoàn cho những sai hỏng nhỏ, thiếu hụt, dư thừa và tiếp nhận lại toàn

bộ lô hàng khi sai hỏng vượt quá ngưỡng chấp nhận của khách hàng. Vì vậy, quản lý

hoạt động thu hồi tốt giúp doanh nghiệp duy trì uy tín của mình với khách hàng và là

bước phản ánh trung thực nhất về chất lượng và sự hài lòng của khách hàng về sản

phẩm. Do vậy, doanh nghiệp cần có một chính sách tiếp nhận và xử lý những vấn đề

phát sinh đối với sản phẩm sau khi bán cho khách hàng.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị chuỗi cung ứng

Để có thể hiểu được một chuỗi cung ứng vận hành như thế nào, thì nhất thiết phải

xác định được các yếu tố tác động đến hoạt động quản trị chuỗi cung ứng. Việc xác

định các yếu tố này tuy được nghiên cứu từ lâu bởi nhiều tác giả, nhưng trong luận văn

này, tác giả sẽ chủ yếu dựa vào kết quả từ công trình nghiên cứu của Henry và cộng sự

(2012); vì sự cập nhật, tính kế thừa trong công trình này. Dưới đây chính là các yếu tố

cơ bản có ảnh hưởng đến hoạt động quản trị chuỗi cung ứng.

1.4.1.



Sự bất ổn về mặt môi trường

1.4.1.1.



Môi trường doanh nghiệp



Yếu tố này liên quan đến mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp

và cấp độ của sự tin tưởng và cam kết giữa các bên. Môi trường doanh nghiệp cũng

liên quan đến kì vọng của công ty về chất lượng, thời gian giao hàng, sự cạnh tranh

trong ngành và mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để có thể đáp

ứng kịp thời và hiệu quả với nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp nhận ra rằng, việc



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

×