Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 87 trang )
2
Đưa hàng hóa ra thị trường nhanh hơn, hạn chế các rủi ro giảm giá do tồn
kho lâu ngày.
Phát triển hệ thống khách hàng trung thành và giao dịch thường xuyên.
Gia tăng doanh số bán hàng và chiếm lĩnh phân khúc thị trường nào đó.
1.1.2.2
Đối với đối tượng được cấp tín dụng thương mại
Được hỗ trợ thêm về kỹ thuật sản phẩm, đào tạo kỹ năng bán hàng cho nhân
viên.
Người mua tận dụng việc mua chịu như là một nguồn tài trợ ngắn hạn, họ có
thể hưởng lợi từ khoản chiết khấu (nếu chấp nhận trả sớm) hoặc có thể chiếm dụng
được một khoản vốn trong một thời hạn cho phép với một chi phí hợp lý.
Gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh trong điều kiện hạn chế về vốn (trong
quá trình kinh doanh nhu cầu về vốn gia tăng nên việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi phải
có một nguồn vốn tích lũy. Do đó việc thực hiện chính sách tín dụng như là một cơ
hội để họ tận dụng gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh của mình)
Nó không gây ảnh hưởng bất lợi đối với các hệ số kinh doanh của doanh
nghiệp giúp doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn.
Thủ tục đơn giản, không rắc rối bởi vì tín dụng thương mại mang tính sẵn
sàng và mềm dẻo, nó không cần một nghi thức chính thức nào để thực hiện việc tài
trợ. Doanh nghiệp không phải ký nợ, thế chấp hoặc gắn với các cam kết chặt chẽ về
thời gian. Sự quá hạn trong tín dụng thương mại được xem nhẹ nhàng hơn so với trễ
hạn trong các khoản vay nợ.
1.1.3 Công cụ của tín dụng thương mại
Để đảm bảo người mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán
chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan
hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền,
hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay
“thương phiếu”. Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa
các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến
đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường trở thành một công cụ lưu
3
thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương
tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế. Dựa trên cơ sở người lập:
thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
1.1.3.1
Hối phiếu:
Là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu trả một số
tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
1.1.3.2
Lệnh Phiếu
Là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định
trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Trên lệnh phiếu kì hạn được quy định rõ
Một lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát cam kết thanh toán cho
một hay nhiều người hưởng lợi.
Lệnh phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính đểđảm
bảo khảnăng thanh toán của lệnh phiếu.
1.1.3.3
Thư bảo lãnh tín dụng
Mục đích là giảm thiểu rủi ro về thanh toán tiền hàng cho người bán hàng/xuất
khẩu. Vì lí do này, bảo lãnh thanh toán sẽ là sự đảm bảo thanh toán số hàng hóa cho
người bán hàng/xuất khẩu nếu người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của
mình khi đến hạn. Số tiền bảo lãnh thanh toán thường chính là giá trị hàng hóa và số
phí phải trả cho số ngày kéo dài thêm vì đòi bồi thường.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng thương mại
1.1.4.1
Nhân tố bên trong
Lợi nhuận tiềm năng: Là cơ sở để đánh giá chính sách tín dụng có hiệu quả
hay không. Chúng ta cần xem xét khả năng bán hàng tín dụng cũng như cũng như
tài sản đầu tư vào các khoản phải thu chưa được thanh toán, điều cần quan tâm là
lợi nhuận tiềm năng có bù đắp được những phí tổn của chính sách tín dụng hay
không là điều đáng quan tâm
4
Quy trình bán hàng: Các kênh bán hàng (ví dụ: bán hàng trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các đại lý / người bán lẻ, người bán sỉ,...) và quy mô của lực lượng
bán hàng sẽ ảnh hưởng đến việc kiểm tra tín dụng và xử lý các khoản phải thu.
Khối lượng bán: Với một khối lượng bán nhỏ thì sẽ không đem lại hiệu quả
khi mở rộng chính sách tín dụng, bởi vì với những chi phí, phí tổn phát sinh trong
trường hợp này nó sẽ không có khả năng cân bằng với lợi nhuận mang lại từ việc
mở rộng chính sách tín dụng. Cho nên trong trường hợp khối lượng bán đủlớn thì
việc mở rộng chính sách tín dụng mới đáng quan tâm.
Giá trị tồn kho: Một doanh nghiệp có giá trị tồn kho lớn, thời gian tồn kho dài
chi phí tồn kho lớn thì họ sẽ có xu hướng mở rộng chính sách tín dụng thương mại
để giải tỏa tồn kho giảm đi bớt gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp.
Bản chất của sản phẩm hàng hóa: Thời hạn tín dụng thương mại được chấp
thuận mở rộng còn tùy thuộc vào bản chất của sản phẩm có thời hạn luân chuyển
cao hay thấp.
Cuối cùng, nhà quản lý phải xác định sự cân bằng giữa hoạt động kinh doanh
và tài chính để xác định một chính sách tín dụng thích hợp. Hoạt động tài chính
được tập trung vào việc giảm thiểu rủi ro, bảo vệ tài sản và kiểm soát chặt chẽ trong
hoạt động quản lý và cấp tín dụng. Do đó nó có thể làm mất đi lợi nhuận kinh
doanh.
1.1.4.2
Ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài
Vị thế cạnh tranh: Trước khi bắt đầu phát triển một chính sách tín dụng
thương mại, tổ chức cần phải hiểu được các vị thế cạnh tranh. Đây là một phần
trong phân tích chiến lược của công ty. Có năm lực lượng định hướng cạnh tranh
trong phạm vi ngành (Michael Porter, 2008) đó là:
Nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: Nếu những
điều khoản tín dụng trong ngành lỏng lẽo thì nó sẽ tạo ra các rào cản xâm nhập làm
những đối thủ mới vào ngành có thể gặp khó khăn trong việc huy động vốn để đầu
tư vào tín dụng thương mại.
5
Mức độ cạnh tranh giữa các công ty hiện có trong ngành: Trong điều
kiện cạnh tranh gây gắt, tín dụng thương mại là công cụ cạnh tranh hiệu quả. Bởi vì,
với một mức độ cạnh tranh và một cường độ cạnh tranh lớn thì một doanh nghiệp
không thể thắt lưng buột bụng đứng nhìn các đối thủ cạnh tranh đưa ra các phương
thức, các chính sách cạnh tranh được. Do đó ở một phương diện nào đó các doanh
nghiệp cần phải xem xát đưa ra các thái độ hình thức tín dụng hiệu quả để lôi kéo
khách hàng về phía mình.
Tình trạng của người bán: Điều kiện tín dụng được chấp thuận tùy
theo tình trạng tài chính và vị trí của người bán trên thị trường.
Tình trạng của người mua: Điều kiện tín dụng được chấp thuận còn
tùy thuộc vào tình trạng tài chính của người mua, người mua là khách hàng quen
hay vãng lai.
Đe dọa của các sản phẩm thay thế: Nếu sản phẩm dễ thay thế thì
người mua sẽ dễ dàng chuyển đổi sang việc sử dụng những sản phẩm khác, do dó sẽ
rất khó khăn trong việc giữ chân khách hàng nếu nhưng các điều khoản tín dụng là
quá thắt chặt.
Một sự hiểu biết về năng lực cạnh tranh của ngành sẽ dẫn đến một loạt các lựa
chọn về việc làm thế nào để tín dụng thương mại có thể giúp các doanh nghiệp định
vị một cách hiệu quảnhất trong thị trường ngành.
Điều kiện kinh tế: Một môi trường kinh tế ổn định, một ngành có tốc độ tăng
trưởng cao thường tạo cho các nhà cung cấp một sự tin tưởng an tâm khi thực hiện
chính sách tín dụng và thu hút họ tham gia một cách mạnh mẽ vào hoạt động này.
Ngược lại nếu một môi trường kinh tế có nhiều bất ổn biến động thì các nhà cung
cấp tín dụng sẽ thờ ơ và không mấy quan tâm đến lĩnh vực này.
Lượng cầu: Chính sách tín dụng được áp dụng hiệu quả nhất trong trường hợp
lượng cầu còn ở mức thấp, nó là công cụ dùng để kích thích gia tăng sức mua, gia
tăng lượng cầu. Việc cố gắng mở rộng chính sách tín dụng trong trường hợp này là
khá tốt.Tuy nhiên trong trường hợp lượng cầu lên cao thì việc áp dụng chính sách
tín dụng mở rộng sẽ không có hiệu quả cao.
6
Điều khoản tín dụng của ngành: Các công ty đặc biệt là các công ty nhỏ
thường thấy khó khăn trong việc áp dụng những điều khoản tín dụng bình thường
trong ngành. Trong trường hợp công ty có quy mô lớn hoặc các sản phẩm, dịch vụ
cung cấp có khả năng cạnh tranh cao thì sẽ có lợi thế trong việc mở rộng hay thu
hẹp các điều khoản tín dụng hơn so với ngành.
Cơ sở khách hàng: Việc phân tích cơ sở khách hàng có thể hỗ trợ cho việc
xây dựng chính sách tín dụng rõ ràng và chính xác. Vấn đề này liên quan đến việc
kiểm tra hồ sơ của khách hàng (như tầm quan trọng và những nguy cơ), các mối
quan hệ thương mại, tần suất và tỉ lệ duy trì việc mua hàng của khách hàng.Chính
sách tín dụng phải làm nổi bật các thủ tục trọng điểm, khách hàng rủi ro cao và tỉ
trọng của họ trong mối quan hệ với tổng số khách hàng.
1.2
RỦI RO TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng thương mại là khả năng tổn thất có thể xảy ra khi cấp tín dụng
cho khách hàng. Rủi ro tín dụng thương mại được biểu hiện:
Số tiền mua nợ khách hàng thanh toán không đúng hạn cam kết, gọi là
rủi ro quá hạn thanh toán công nợ.
Số tiền mua nợ khách hàng không thanh toán đầy đủ hoặc không có
khả năng thanh toán khi đến hạn, gọi là rủi ro mất tiền nợ từ người mua nợ.
1.2.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng thương mại
1.2.2.1
Nguyên nhân khách quan
Do thị trường biến động và nhiều rủi ro
Rủi ro do thiên tai, dịch bệnh.
Do môi trường pháp lý chưa đồng bộ và thực thi pháp luật còn kém hiệu
quả…
1.2.2.2
Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân rủi ro từ đối tác được thụ hưởng tín dụng thương mại:
Tài chính doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu minh bạch: quy mô tài sản, nguồn
vốn nhỏ, tỉ lệ nợ trên vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp
7
Việt Nam. Tình hình tài chính kế toán hầu như không được kiểm toán, các số liệu
trên sổ sách kế toán mang tính hình thức, độ tin cậy không được đảm bảo.
Năng lực quản lý, điều hành kinh doanh còn hạn chế mang tính gia đình, các
doanh nghiệp điều hành hoạt động kinh doanh chủ yếu theo kiểu gia đình và kinh
nghiệm mà chưa được trang bị đầy đủ những kỹ năng quản lý, hoạch định chiến
lược nên rất dễ phá sản khi đứng trước những cú sốc của thị trường.
Sử dụng khoản tín dụng thương mại sai mục đích hoặc cố ý lừa đảo, đa phần
các doanh nghiệp ở nước ta thường hoạt động đa ngành nghề, thậm chí kinh doanh
cả những ngành không đăng ký kinh doanh. Hiện tượng này thường thấy qua việc
khách hàng dùng hàng của nhà cung cấp bán lỗ để quay vòng đồng tiền nhanh vào
những hoạt động kinh doanh khác dẫn đến rủi ro thanh toán không đúng hạn hoặc
mất khả năng thanh toán cho nhà cung cấp. Hoặc tình trạng một số doanh nghiệp cố
tình lừa đảo bằng việc lấy lòng tin trong thời gian đầu bằng việc thanh toán rất đúng
hạn sau đó nhập một lô hàng lớn cao hơn giá trị các lô hàng đã nhập trước đây rồi
trốn mất.
Nguyên nhân rủi ro từ phía người cung cấp tín dụng thương mại:
Các tiêu chí thẩm định đánh giá khách hàng còn dựa trên cơ sở số liệu lịch sử,
cảm tính, chưa tuân thủ các phương pháp phân tích tín dụng đã đề cập ở trên, chưa
đề nghị đối tác thụ hưởng tín dụng thương mại phải thế chấp tài sản do những hạn
chế về mặt cơ chế quản lý.
Sức ép từ các đối thủ cạnh tranh làm cho doanh nghiệp đưa ra các chính sách
tín dụng linh động hơn để thu hút khách hàng về mình. Hoặc do chạy theo mục đích
tăng trưởng mà không chú trọng vào quản lý chất lượng công nợ rất dễ dẫn đến khả
năng mất kiểm soát từ phía khách hàng lẫn nhà cung cấp.
Sự yếu kém của bộ phận quản lý công nợ trong khâu đôn đốc kiểm soát chất
lượng nợ, đi quan sát khách hàng để tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng
nhằm nhận diện trước những dấu hiệu không an toàn để cảnh báo.
1.2.3 Một số dấu hiệu của rủi ro tín dụng thương mại
Các dấu hiệu liên quan đến tình hình kinh doanh của khách hàng:
8
Hàng hóa nhập không ổn định và thường bán ra với giá thấp hơn giá
mua vào.
Hàng tồn nhiều, bị giảm giá do những biến động của thị trường, không
tìm thấy giải pháp đưa hàng ra thị trường.
Thanh toán công nợ không đúng hạn nhiều lần và không có khả năng
cải thiện tình hình thanh toán.
Các doanh nghiệp có tiêu thụ hàng lậu, hàng không xuất xứ cũng có
một tìm ẩn rủi ro rất lớn nếu bị cơ quan chức năng phát hiện, khởi tố.
Các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý doanh nghiệp của khách
hàng:
Thay đổi thường xuyên hệ thống quản trị hoặc ban điều hành
Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành bất đồng về mục đích, quản trị,
điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
Không có chiến lược phát triển lâu dài.
Quản lý có tính gia đình.
Hệ thống sổ sách kế toán thủ công, không minh bạch
1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
1.2.4.1
Đối với đối tượng cấp tín dụng thương mại
Khi rủi ro tín dụng thương mại xảy ra, doanh nghiệp không thu được tiền hàng
hóa hay dịch vụ đã bán, nhưng doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại phải trả tiền
cho nhà cung cấp, điều này sẽ làm cho doanh nghiệp mất cân đối trong việc thu chi,
vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả, chi
phí tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản phải thu nào đó bị mất khả năng thu hồi thì doanh nghiệp phải
sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người nhà cung cấp, đến một chừng
mực nào đấy, doanh nghiệp không có đủ nguồn vốn để trả cho người nhà cung cấp
hay ngân hàng thì sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến
nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng
lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh của doanh
9
nghiệp ngày càng xấu có thể dẫn đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu
không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
1.2.4.2
Đối với nền kinh tế - xã hội
Một doanh nghiệp khi cấp hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp khác nhưng
thực chất doanh nghiệp đó cũng được cấp tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp
hoặc vay vốn từ ngân hàng. Bởi vậy khi rủi ro tín dụng thương mại xảy ra không
những chỉ doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại bị thiệt hại mà cả những nhà cung
cấp, ngân hàng đều bị ảnh hưởng.
Khi một doanh nghiệp gặp phải rủi ro tín dụng thương mại thì các doanh
nghiệp khác trong ngành dù có bị ảnh hưởng hay không cũng sẽ thắt chặt việc cấp
tín dụng thương mại hay các ngân hàng vì thế sẽ hạn chế cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp trong ngành, có thể sẽ gây khó khăn và ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác.
Rủi ro tín dụng xảy ra dẫn đến doanh nghiệp phá sản đối với những doanh
nghiệp có sức ảnh hưởng lớn trong ngành có thể kéo theo hàng loạt các doanh
nghiệp khác gặp khó khăn hoặc phá sản, làm tăng tỉ lệ thất nghiệp, thiếu hụt hàng
hóa hay giá cả các hàng hóa trong ngành tăng cao.
Tóm lại, rủi ro tín dụng thương mại của các doanh nghiệp có mức độ ảnh
hưởng khác nhau, nhẹ thì bị giảm doanh số, không đạt mục tiêu kinh doanh, nặng
nhất có thể không thu hồi được vốn dẫn đến thua lỗ. Nếu tình trạng kéo dài không
khắc phục được doanh nghiệp sẽ bị phá sản, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác
và cả hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp cần
phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp để ngăn ngừa rủi ro tín
dụng thương mại.
1.2.5 Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng
1.2.5.1
Mô hình chỉ số Z
Việc tìm ra một công cụ để phát hiện dấu hiệu báo trước sự phá sản luôn là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu về tài chánh doanh
nghiệp. Có nhiều công cụ đã được phát triển để làm việc này. Trong đó, chỉ số Z
10
(Gregory J Eidleman, 1995) là công cụ được cả hai giới học thuật và thực hành,
công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số này được phát minh bởi
Giáo Sư Edward I. Altman, trường kinh doanh Leonard N. Stern, thuộc trường Đại
Học New York, dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số lượng nhiều công ty
khác nhau tại Mỹ. Mặc dù chỉ số Z này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các
nước, vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.
Chỉ số Z bao gồm 5 chỉ số X1, X2, X3, X4, X5:
X1 = Tỉ số Vốn Lưu Động trên Tổng Tài Sản (Working Capitals/Total
Assets).
X2 = Tỉ số Lợi Nhuận Giữ Lại trên Tổng Tài Sản (Retain Earnings/Total
Assets)
X3 = Tỉ Số Lợi Nhuận Trước Lãi Vay và Thuế trên Tổng Tài sản (EBIT/Total
Assets)
X4 = Giá Trị Thị Trường của Vốn Chủ Sỡ Hữu trên Giá trị sổ sách của Tổng
Nợ (Market Value of Total Equity / Book values of total Liabilities)
X5 = Tỷ số Doanh Số trên Tổng Tài Sản (Sales/Total Assets)
Từ một chỉ số Z ban đầu, Giáo Sư Edward I. Altman đã phát triển ra Z’ và Z’’
để có thể áp dụng theo từng loại hình và ngành của doanh nghiệp, như sau:
Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản suất:
o Z = 1.2
Nếu Z > 2.99:
+ 1.4
+ 3.3
+ 0.64
+ 0.999
Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có
nguy cơ phá sản
Nếu 1.8 < Z < 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có
nguy cơ phá sản
Nếu Z<1.8:
Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ
phá sản cao.
Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá, ngành sản suất:
Z’ = 0.717
+ 0.847
+ 3.107
+ 0.42
+ 0.998
11
Nếu Z’ > 2.9:
Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có
nguy cơ phá sản
Nếu 1.23 < Z’ < 2.9:
Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể
có nguy cơ phá sản
Nếu Z’<1.23:
Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy
cơ phá sản cao.
Đối với các doanh nghiệp khác:
Chỉ số Z’’ dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình
doanh nghiệp. Vì sự khác nhau khá lớn của X5 giữa các ngành, nên X5 đã được đưa
ra. Công thức tính chỉ số Z’’ được điều chỉnh như sau
Z’’ = 6.56
+ 3.26
Nếu Z’’ > 2.6
+ 6.72
+ 1.05
Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có
nguy cơ phá sản
Nếu 1.2 < Z’’ < 2.6
Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể
có nguy cơ phá sản
Nếu
Z <1.1
Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ
phá sản cao
1.2.5.2
Mô hình 6C
Trọng tâm của mô hình 6C (http://ub.com.vn/threads/useful-quy-tac-co-ban6c-trong-tin-dung.5962/ ) này là xem xét liệu người được cấp tín dụng có thiện chí
và khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn hay không. Cụ thể bao gồm 6 yếu
tố sau:
Tư cách doanh nghiệp được cấp tín dụng (Character): Nhà quản trị phải
làm rõ mục đích xin cấp tín dụng thương mại của khách hàng, đồng thời xem xét về
lịch sử trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin
từ nhiều nguồn khác như: Trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng, hoặc các cơ
quan thông tin đại chúng …
12
Năng lực của doanh nghiệp được cấp tín dụng (Capacity): Tùy thuộc vào
qui định luật pháp của quốc gia. Doanh nghiệp được cấp tín dụng phải có đầy đủ
năng lực theo pháp luật quy định.
Doanh thu của doanh nghiệp (Cash): Trước hết phải xác định được
nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập,
tiền từ bán hàng thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán…Sau đó cần
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các tỉ số tài chính.
Bảo đảm (Collateral): Đây là điều kiện để các nhà quản trị cấp tín dụng
và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để thanh toán công nợ.
Các điều kiện (Conditions): Doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại quy
định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ.
Kiểm soát (Control): Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật
pháp, quy chế hoạt động đến khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của quản
trị rủi ro tín dụng thương mại.
Mô hình 6C tương đối đơn giản, tuy nhiên lại phụ thuộc quá nhiều vào mức độ
chính xác của nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình độ
phân tích, đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng.
1.3
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
1.3.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng thương mại
Quản trị rủi ro tín dụng thương mại là quá trình doanh nghiệp hoạch định, tổ
chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng
thương mại nhằm tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận.
1.3.2 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng thương mại
1.3.2.1
Rủi ro tín dụng thương mại là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự tổn thất
về vốn của các doanh nghiệp
Rủi ro tín dụng thương mại là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tổn thất về vốn
cho các doanh nghiệp. Vì vậy, rủi ro tín dụng thương mại được xem là một trong
những nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng phân
tích, đánh giá và quản trị rủi ro tín dụng thương mại hiệu quả. Một khi doanh