1. Trang chủ >
  2. Tài Chính - Ngân Hàng >
  3. Ngân hàng - Tín dụng >

2 RỦI RO TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 87 trang )


7



Việt Nam. Tình hình tài chính kế toán hầu như không được kiểm toán, các số liệu

trên sổ sách kế toán mang tính hình thức, độ tin cậy không được đảm bảo.

Năng lực quản lý, điều hành kinh doanh còn hạn chế mang tính gia đình, các

doanh nghiệp điều hành hoạt động kinh doanh chủ yếu theo kiểu gia đình và kinh

nghiệm mà chưa được trang bị đầy đủ những kỹ năng quản lý, hoạch định chiến

lược nên rất dễ phá sản khi đứng trước những cú sốc của thị trường.

Sử dụng khoản tín dụng thương mại sai mục đích hoặc cố ý lừa đảo, đa phần

các doanh nghiệp ở nước ta thường hoạt động đa ngành nghề, thậm chí kinh doanh

cả những ngành không đăng ký kinh doanh. Hiện tượng này thường thấy qua việc

khách hàng dùng hàng của nhà cung cấp bán lỗ để quay vòng đồng tiền nhanh vào

những hoạt động kinh doanh khác dẫn đến rủi ro thanh toán không đúng hạn hoặc

mất khả năng thanh toán cho nhà cung cấp. Hoặc tình trạng một số doanh nghiệp cố

tình lừa đảo bằng việc lấy lòng tin trong thời gian đầu bằng việc thanh toán rất đúng

hạn sau đó nhập một lô hàng lớn cao hơn giá trị các lô hàng đã nhập trước đây rồi

trốn mất.

Nguyên nhân rủi ro từ phía người cung cấp tín dụng thương mại:

Các tiêu chí thẩm định đánh giá khách hàng còn dựa trên cơ sở số liệu lịch sử,

cảm tính, chưa tuân thủ các phương pháp phân tích tín dụng đã đề cập ở trên, chưa

đề nghị đối tác thụ hưởng tín dụng thương mại phải thế chấp tài sản do những hạn

chế về mặt cơ chế quản lý.

Sức ép từ các đối thủ cạnh tranh làm cho doanh nghiệp đưa ra các chính sách

tín dụng linh động hơn để thu hút khách hàng về mình. Hoặc do chạy theo mục đích

tăng trưởng mà không chú trọng vào quản lý chất lượng công nợ rất dễ dẫn đến khả

năng mất kiểm soát từ phía khách hàng lẫn nhà cung cấp.

Sự yếu kém của bộ phận quản lý công nợ trong khâu đôn đốc kiểm soát chất

lượng nợ, đi quan sát khách hàng để tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng

nhằm nhận diện trước những dấu hiệu không an toàn để cảnh báo.

1.2.3 Một số dấu hiệu của rủi ro tín dụng thương mại

Các dấu hiệu liên quan đến tình hình kinh doanh của khách hàng:



8



 Hàng hóa nhập không ổn định và thường bán ra với giá thấp hơn giá

mua vào.

 Hàng tồn nhiều, bị giảm giá do những biến động của thị trường, không

tìm thấy giải pháp đưa hàng ra thị trường.

 Thanh toán công nợ không đúng hạn nhiều lần và không có khả năng

cải thiện tình hình thanh toán.

 Các doanh nghiệp có tiêu thụ hàng lậu, hàng không xuất xứ cũng có

một tìm ẩn rủi ro rất lớn nếu bị cơ quan chức năng phát hiện, khởi tố.

Các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý doanh nghiệp của khách

hàng:

 Thay đổi thường xuyên hệ thống quản trị hoặc ban điều hành

 Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành bất đồng về mục đích, quản trị,

điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.

 Không có chiến lược phát triển lâu dài.

 Quản lý có tính gia đình.

 Hệ thống sổ sách kế toán thủ công, không minh bạch

1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng

1.2.4.1



Đối với đối tượng cấp tín dụng thương mại



Khi rủi ro tín dụng thương mại xảy ra, doanh nghiệp không thu được tiền hàng

hóa hay dịch vụ đã bán, nhưng doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại phải trả tiền

cho nhà cung cấp, điều này sẽ làm cho doanh nghiệp mất cân đối trong việc thu chi,

vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả, chi

phí tăng lên so với dự kiến.

Nếu một khoản phải thu nào đó bị mất khả năng thu hồi thì doanh nghiệp phải

sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người nhà cung cấp, đến một chừng

mực nào đấy, doanh nghiệp không có đủ nguồn vốn để trả cho người nhà cung cấp

hay ngân hàng thì sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến

nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng

lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh của doanh



9



nghiệp ngày càng xấu có thể dẫn đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu

không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.

1.2.4.2



Đối với nền kinh tế - xã hội



Một doanh nghiệp khi cấp hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp khác nhưng

thực chất doanh nghiệp đó cũng được cấp tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp

hoặc vay vốn từ ngân hàng. Bởi vậy khi rủi ro tín dụng thương mại xảy ra không

những chỉ doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại bị thiệt hại mà cả những nhà cung

cấp, ngân hàng đều bị ảnh hưởng.

Khi một doanh nghiệp gặp phải rủi ro tín dụng thương mại thì các doanh

nghiệp khác trong ngành dù có bị ảnh hưởng hay không cũng sẽ thắt chặt việc cấp

tín dụng thương mại hay các ngân hàng vì thế sẽ hạn chế cấp tín dụng cho các

doanh nghiệp trong ngành, có thể sẽ gây khó khăn và ảnh hưởng đến hoạt động sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác.

Rủi ro tín dụng xảy ra dẫn đến doanh nghiệp phá sản đối với những doanh

nghiệp có sức ảnh hưởng lớn trong ngành có thể kéo theo hàng loạt các doanh

nghiệp khác gặp khó khăn hoặc phá sản, làm tăng tỉ lệ thất nghiệp, thiếu hụt hàng

hóa hay giá cả các hàng hóa trong ngành tăng cao.

Tóm lại, rủi ro tín dụng thương mại của các doanh nghiệp có mức độ ảnh

hưởng khác nhau, nhẹ thì bị giảm doanh số, không đạt mục tiêu kinh doanh, nặng

nhất có thể không thu hồi được vốn dẫn đến thua lỗ. Nếu tình trạng kéo dài không

khắc phục được doanh nghiệp sẽ bị phá sản, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác

và cả hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp cần

phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp để ngăn ngừa rủi ro tín

dụng thương mại.

1.2.5 Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng

1.2.5.1



Mô hình chỉ số Z



Việc tìm ra một công cụ để phát hiện dấu hiệu báo trước sự phá sản luôn là

một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu về tài chánh doanh

nghiệp. Có nhiều công cụ đã được phát triển để làm việc này. Trong đó, chỉ số Z



10



(Gregory J Eidleman, 1995) là công cụ được cả hai giới học thuật và thực hành,

công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số này được phát minh bởi

Giáo Sư Edward I. Altman, trường kinh doanh Leonard N. Stern, thuộc trường Đại

Học New York, dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số lượng nhiều công ty

khác nhau tại Mỹ. Mặc dù chỉ số Z này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các

nước, vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.

Chỉ số Z bao gồm 5 chỉ số X1, X2, X3, X4, X5:

 X1 = Tỉ số Vốn Lưu Động trên Tổng Tài Sản (Working Capitals/Total

Assets).

 X2 = Tỉ số Lợi Nhuận Giữ Lại trên Tổng Tài Sản (Retain Earnings/Total

Assets)

 X3 = Tỉ Số Lợi Nhuận Trước Lãi Vay và Thuế trên Tổng Tài sản (EBIT/Total

Assets)

 X4 = Giá Trị Thị Trường của Vốn Chủ Sỡ Hữu trên Giá trị sổ sách của Tổng

Nợ (Market Value of Total Equity / Book values of total Liabilities)

 X5 = Tỷ số Doanh Số trên Tổng Tài Sản (Sales/Total Assets)

Từ một chỉ số Z ban đầu, Giáo Sư Edward I. Altman đã phát triển ra Z’ và Z’’

để có thể áp dụng theo từng loại hình và ngành của doanh nghiệp, như sau:

Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản suất:

o Z = 1.2





Nếu Z > 2.99:



+ 1.4



+ 3.3



+ 0.64



+ 0.999



Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có



nguy cơ phá sản





Nếu 1.8 < Z < 2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có



nguy cơ phá sản





Nếu Z<1.8:



Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ



phá sản cao.

Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá, ngành sản suất:

Z’ = 0.717



+ 0.847



+ 3.107



+ 0.42



+ 0.998



11







Nếu Z’ > 2.9:



Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có



nguy cơ phá sản





Nếu 1.23 < Z’ < 2.9:



Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể



có nguy cơ phá sản





Nếu Z’<1.23:



Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy



cơ phá sản cao.

Đối với các doanh nghiệp khác:

Chỉ số Z’’ dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình

doanh nghiệp. Vì sự khác nhau khá lớn của X5 giữa các ngành, nên X5 đã được đưa

ra. Công thức tính chỉ số Z’’ được điều chỉnh như sau

Z’’ = 6.56





+ 3.26



Nếu Z’’ > 2.6



+ 6.72



+ 1.05



Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có



nguy cơ phá sản





Nếu 1.2 < Z’’ < 2.6



Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể



có nguy cơ phá sản





Nếu



Z <1.1



Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ



phá sản cao

1.2.5.2



Mô hình 6C



Trọng tâm của mô hình 6C (http://ub.com.vn/threads/useful-quy-tac-co-ban6c-trong-tin-dung.5962/ ) này là xem xét liệu người được cấp tín dụng có thiện chí

và khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn hay không. Cụ thể bao gồm 6 yếu

tố sau:





Tư cách doanh nghiệp được cấp tín dụng (Character): Nhà quản trị phải



làm rõ mục đích xin cấp tín dụng thương mại của khách hàng, đồng thời xem xét về

lịch sử trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin

từ nhiều nguồn khác như: Trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng, hoặc các cơ

quan thông tin đại chúng …



12







Năng lực của doanh nghiệp được cấp tín dụng (Capacity): Tùy thuộc vào



qui định luật pháp của quốc gia. Doanh nghiệp được cấp tín dụng phải có đầy đủ

năng lực theo pháp luật quy định.





Doanh thu của doanh nghiệp (Cash): Trước hết phải xác định được



nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập,

tiền từ bán hàng thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán…Sau đó cần

phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các tỉ số tài chính.





Bảo đảm (Collateral): Đây là điều kiện để các nhà quản trị cấp tín dụng



và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để thanh toán công nợ.





Các điều kiện (Conditions): Doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại quy



định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ.





Kiểm soát (Control): Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật



pháp, quy chế hoạt động đến khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của quản

trị rủi ro tín dụng thương mại.

Mô hình 6C tương đối đơn giản, tuy nhiên lại phụ thuộc quá nhiều vào mức độ

chính xác của nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình độ

phân tích, đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng.

1.3



QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI



1.3.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng thương mại

Quản trị rủi ro tín dụng thương mại là quá trình doanh nghiệp hoạch định, tổ

chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng

thương mại nhằm tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận.

1.3.2 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng thương mại

1.3.2.1



Rủi ro tín dụng thương mại là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự tổn thất



về vốn của các doanh nghiệp

Rủi ro tín dụng thương mại là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tổn thất về vốn

cho các doanh nghiệp. Vì vậy, rủi ro tín dụng thương mại được xem là một trong

những nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng phân

tích, đánh giá và quản trị rủi ro tín dụng thương mại hiệu quả. Một khi doanh



13



nghiệp chấp nhận cấp tín dụng thương mại có rủi ro tín dụng cao nhằm đạt mục tiêu

về kinh doanh thì doanh nghiệp có khả năng phải đối mặt với tình trạng mất vốn

hay tính thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hoạt động kinh doanh cũng

như lợi nhuận của doanh nghiệp, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Cho nên, các

doanh nghiệp cần phải chú trọng hơn nữa đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng

thương mại để có những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa và hạn chế tối đa rủi ro

tín dụng thương mại xảy ra.

1.3.2.2



Quản trị rủi ro tín dụng thương mại là thước đo năng lực kinh doanh



của các doanh nghiệp

Tình hình kinh tế ngày càng có nhiều biến động, thị trường tài chính, tiền tệ và

ngân hàng cũng diễn biến phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng

thương mại. Mặc dù, trước khi cấp tín dụng thương mại nhân viên đã tìm hiểu thị

trường và dự đoán những rủi ro có thể xảy ra nhưng sự tiên liệu, phát hiện rủi ro

tiềm ẩn và ứng phó của nhân viên là có giới hạn, trên thực tế rủi ro tín dụng thương

mạiphát sinh do nhiều nguyên nhân, có thể do nguyên nhân khách quan, chủ quan

hay do bất khả kháng… Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng thương mại phải được xem

là một nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực kinh doanh của các doanh

nghiệpđể ngăn ngừa và hạn chế tối đa những tổn thất do rủi ro tín dụng thương mại

gây ra .

Quản trị rủi ro tín dụng thương mại tốt là một lợi thế cạnh tranh của các doanh

nghiệp, quản trị rủi ro tín dụng thương mại được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho

doanh nghiệp sàn lọc được những khách hàng có năng lực tài chính tốt, có tiềm

năng phát triển… nhằm giúp cho kinh doanh thực sự mang lại hiệu quả, và sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh.

1.3.3 Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng thương mại dựa vào Basel II

Thực tế doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cũng giống như đang cho vay

vì vậy cũng có thể áp dụng mô hình quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II vào hoạt

động quản trị rủi ro tín dụng của doanh nghiệp.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

×