Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.23 MB, 339 trang )
toàn khi xảy ra bão lớn kết hợp nước biển dâng. Ví dụ như: Kè Xuân Hòa, kè Doanh
Châu – Ba Nõn, kè Xung Điền- Văn Lý, kè Kiên Chính, kè ngan ô phòng không, kè
Đinh Mùi, kè Hạ Trại – Táo Khoai, kè Cồn Tròn, kè Hải Thình 1 và kè Hải Thịnh 2
vẫn thường xuyên bị sạt lở.
Hình 3: Tuyến đê biển được xây bằng bê tông tại xã Hải Đông-Hải Hậu
Trong những năm qua việc xây đê ngăn biển đã làm cho mực thủy triều cao hơn,
năng lượng thủy triều tăng. Đây là một trong những nguyên nhân làm thu hẹp các bãi
triều hiện có và làm đáy biển ven bờ thấp dần tại khu vực ven biển của huyện.
Tại xã Hải Thịnh một khu vực khai thác sa khoáng, sau 10 tháng khu vực này đã
“biến mất” chỉ còn lại dàn tuyển bỏ không. Cũng tại địa điểm này sau 9 tháng rừng phi
lao phòng hộ bị xóa sạch, chỉ còn lại một số cây mọc sát đê. Xói lở bờ biển đã phá hủy
hệ sinh thái rừng ngập mặn, rừng phòng hộ và cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện một
cánh nhanh chóng.
Trước năm 1996, trên một khu vực thuộc xã Hải Lý, huyện Hải Hậu từng là một
ngôi làng với nhiều công trình kiến trúc. Sau đó, bị biển xâm lấn sâu vào đất liền hơn
một kilomet khiến ngôi làng biến mất, nhưng một số công trình vẫn còn đó tuy nhiên
không được nguyên vẹn (Hình 4). Tại đoạn bờ xã Hải Lý, Hải Triều ngày nay có nhiều
dấu tích tàn phá của xói lở để lại. Ngay như trên đoạn bờ xã Hải Triều, vào năm 1995
dọc theo bên trong đê là khu dân cư trù phú nhưng đến năm 2001 đã trở thành bãi triều
hoang.
Hình 4: Các mảnh còn lại của các công trình kiến trúc – sản phẩm phá hủy bởi xói lở
Một minh chứng khác cho sự tàn phá của tình trạng xói lở trên địa bàn huyện đó là
tại đoạn bờ thuộc xã Hải Lý có một nhà thờ được xây dựng vào năm 1868, lúc xây vốn
cách biển khoảng 1000m. Nhưng do xói lở nên 1935-1940 đã phải tiến hành thực hiện
di dời nhà thờ lần thứ nhất vào trong đất liền. Năm 1992-1997 thực hiện di dời lần thứ
2, năm 2000 thực hiện di dời lần thứ 3. Sau cơn bão số 7 năm 2005, hệ thống đê biển
bị phá vỡ buộc phải di nhà thờ lần thứ 4 vào trong đất liền (Hình 5).
Hình 5: Nhà thờ đổ thuộc xã Hải Lý huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định
Hiện nay, chứng tích “Nhà thờ đổ” vẫn còn, để giúp cho nó có thể đứng vững trên
nền đất yếu đã từng bị sụp những năm về trước thì người dân nơi đây đã tiến hành đắp
đá phía chân của Nhà thờ. Từ đó sẽ củng cố được nền móng phía dưới vững chắc hơn,
giảm thiểu những tác động của sóng, gió, thủy triều tác động vào (Hình 6).
Hình 6: Biện pháp đắp đá tại chứng tích Nhà thờ đổ thuộc xã Hải Lý
Tuy nhiên, đây mới chỉ là biện pháp tạm thời, nó khó có thể chịu được sức mạnh
cũng như cường độ tấn công của những trận bão lớn.
Đáng nhớ nhất là cơn bão số 7 năm 2005 đã phá hủy đê nghiêm trọng, các tuyến
đê ngoài hầu như bị phá hủy hoàn toàn, nhiều đoạn bị vỡ, nước biển tràn vào gây lụt.
Theo tài liệu [15] cho thấy:
-
Tuyến 1 An Hóa đê đất cát 120m đê bị vỡ.
-
Đoạn Văn Lý sạt mái ngoài đê dài trên 100m.
-
Đoạn đê kè Kiên Chính (xã Hải Chính) dài trên 700m, sạt lở mất toàn bộ thân đê và
mái đê phía trong, cao trình đê bị hạ thấp.
-
Đoạn Táo Khoai (xã Hải Hòa) vỡ 2 đoạn, tuyến ngoài gần 1km, tuyến trong 68m,
nước biển tràn vào các xã Hải Hòa, Hải Triều, Hải Chính.
-
Đoạn đê Cồn Tròn (Hải Hòa) vỡ 2 đoạn dài 86m, nước biển tràn ngập Cồn Tròn.
-
Đầu kè Hải Thịnh 2 sạt trên 100m, có hố sâu 3-4m.
-
Đoạn Hải Thịnh 3 (Thị trấn Thịnh Long) đê vỡ dài 174m, nước tràn ngập làm vỡ
tiếp 50m đê tuyến dự phòng, nước tràn tiếp vào bên trong gây lụt.
Trên địa bàn huyện quá trình xói lở xảy ra bắt đầu từ năm 1905 cho đến ngày nay.
Đường bờ biển đã lấn sâu vào đất liền, đất bị mất là đất bãi triều, đất canh tác và đất
thổ cư – một tài nguyên quý và có giá trị ở vùng ven biển. Quá trình đất bị mất dần
theo thời gian đã làm cho không gian sống bị thu hẹp lại gây ra rất nhiều khó khăn về
đời sống đối với cư dân ven biển, đặc biệt là đối với các xã Hải Triều, Hải Lý và Hải
Chính. Đây là những xã bị xói lở mạnh, các khu dân cư bị phá hủy, phải di chuyển vào
trong đất liền nhiều lần, xây dựng lại nơi ở mới dẫn đến cuộc sống người dân không
được ổn định và mức độ khó khăn ngày càng gia tăng.
Cho đến thời điểm hiện tại, bờ biển thuộc địa bàn huyện Hải Hậu được bảo vệ bởi
hệ thống đê hai tuyến: tuyến ngoài đê thường xuyên tiếp xúc với sóng biển khi triều
lên; tuyến dự phòng nằm bên trong cách tuyến ngoài khoảng 200m. Hệ thống đê biển
của huyện với chiều dài 27km đê có 13km đê 1 tuyến và 14,3km đê không có bãi biển.
Theo Báo cáo về Tình hình đê biển Hải Hậu trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
[16], trong giai đoạn 1985 đến năm 2005 thì hầu hết các tuyến đê trên địa bàn huyện
Hải Hậu đều đã bị tàn phá nặng nề và phải di dời vào phía trong đất liền:
-
Đoạn đê An Hóa ở xã Hải Đông dài 1200m đã bị tàn phá sau con bão số 7 năm
2005 phải dịch tuyến vào trong phía đồng trung bình 180m. Diện tích đất bị mất
240000m2.
-
Đoạn đê Xuân Hà ở xã Hải Đông dài 1600m đã bị tàn phá năm 2003 phải dịch
tuyến vào trong phía đông trung bình 180m. Diện tích đất bị mất 288000m2.
-
Đoạn đê Xương Điền – Văn Lý dài 2280m năm 2003, 2004 bị võ nhiều lần, đến
năm 2005 thì bị hủy hoàn toàn phải dịch chuyển tuyến đê vào trong từ 250 đến 400m.
Diện tích đất bị mất là 741000m2.
-
Đoạn đê Văn Lý dài 730m, bị tàn phá năm 2004 phải dịch chuyển tuyến vào đê
trong 200m. Diện tích đất bị mất là 291200m2.
-
Đoạn đê Đông Kinh dài 2080m bị tàn phá năm 1997,1998 phải dịch chuyển tuyến
vào đê trong 140m. Diện tích bị mất 291200m2.
-
Đoạn đê Hải Triều dài 2690m bị tàn phá năm 2000, 2001 phải dịch chuyển tuyến
vào trong 150m. Diện tích đất bị mất là 403500m2.
Từ đây ta có thể thấy rằng từ năm 1985 đến nay thống kê sơ bộ huyện đã phải di
chuyển nhân dân tại 5 xóm của 3 xã gồm: Hải Lý (3 xóm), Hải Triều ( 01 xóm), và thị
trấn Thịnh Long ( 01 xóm) với tổng số nhân khẩu phải di chuyển vào trong đê tuyến 2
là 3750 người. Những bãi hiện tại ta nhìn thấy còn lại là bãi nằm trong khoảng cách
giữa 2 tuyến đê trước khi tuyến đê 1 cũ bị tàn phá (hình 7).
Hình 7: Tuyến đê 1 cũ sau khi bị tán phá
Khi triều lên, đi dọc bờ biển Hải Hậu, ta có thể thấy nước biển đã áp sát chân đê
và cả một không gian rộng lớn chỉ có biển và sóng, khi triều kiệt thì lại lộ ra các bãi
triều mang nhiều dấu tích của phá hủy (các đoạn đê sót, nền móng nhà, cột và tháp nhà
thờ và các vách bờ xói lở). Môi trường ven bờ hoàn toàn không thuận lợi cho các loài
thủy sinh phát triển.
Xói lở bờ biển trên vùng đang sụt lún đã ảnh hưởng đến chất lượng đất canh tác và
nguồn nước ở vùng này. Nước biển lấn sâu vào đất liền làm cho đất và nước bị nhiễm
mặn. Theo kết quả đo độ muối vào mùa mưa và mùa khô năm 2008 tại tầng chứa nước
Holocen (tại các giếng của các gia đình thuộc các xã ven biển huyện Hải Hậu) cho
thấy nước ngầm có độ muối cao (dao động từ 4‰ đến trên 15‰). Theo tiêu chuẩn
phân loại của Zernop (1934) thì nước ngầm vùng này thuộc nước lợ. Nước ngầm, nước
giếng được dùng để giặt, rửa, còn nước sinh hoạt chủ yếu là nước mưa [15].
Trên địa bàn dọc tuyến đê 2 từ xã Hải Đông đến thị trấn Thịnh Long đã hình thành
các chòi nuôi tôm công nghiệp, nuôi kết hợp tôm cá (Hình 8) ở vùng đất nằm giữa
tuyến đê 1 cũ và tuyến đê 2.
Hình 8: Mô hình nuôi trồng thủy sản tại xã Hải Đông
Để bảo vệ đất và không gian sống người dân đã tiến hành xây dựng các công trình
phòng hộ như xây đê biển, kè áp mái và bê tông hóa kết hợp trồng nhũng bụi cây sú,
vẹt xen kẽ giúp phòng tránh và giảm thiểu các tác hại của sóng gió, thủy triều cùng các
cơn bão ảnh hưởng đến tuyến đê 2 phía trong. Những bụi cây sú, vẹt này có tác dụng
rất quan trọng làm tăng thêm tốc độ bồi tụ phù sa trên các bãi bồi ven biển; chắn sóng;
hạn chế được tốc độ chảy và tác hại các dòng hải lưu ven bờ, qua đó bảo vệ hệ thống
đê ngăn mặn ven biển; làm giảm nhiệt độ mặt nước, mặt đất trong những ngày hè nóng
gắt và giữ nhiệt độ của nước không tụt xuống quá thấp trong mùa đông giá lạnh (Hình
9).
Hình 9: Những bụi cây sú, vẹt được trồng dọc tuyến đê
Bên cạnh đó công cuộc xây dựng rừng ngập mặn trên địa bàn huyện cũng đang
được tiến hành một cách nhanh chóng, góp phần ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình
trạng suy thoái môi trường, bảo tồn đa dạng sinh vật và cải thiện môi trường tại các xã
ven biển của huyện (Hình 10). Nó có vai trò quan trọng trong việc hạn chế các tác
động rủi ro trong xu thế biến đổi khí hậu, hiệu quả trong việc hạn chế thiệt hại do thiên
tai, bão lũ gây ra, làm chậm dòng chảy, giảm độ cao của sóng, bảo vệ đê biển.
Hình 10: Hệ thống rừng ngập mặn trên địa bàn huyện Hải Hậu
Ngoài ra, các công trình giúp chắn sóng, chắn cát rất hữa ích nữa đó là hệ thống kè
mỏ hàn, nó đã góp phần không nhỏ trong việc giúp huyện Hải Hậu giảm thiểu đáng kể
tác động của sóng gió, thủy triều đến vùng đất ven biển (Hình 11).
Hình 11: Hệ thống kè để chắn cát và sóng được đặt ven biển ở xã Hải Đông
Nhiều năm tháng trôi qua, chiếc kè mỏ hàn này chính là minh chứng cho những
tác động của biển tới đất liền. Sóng gió, thủy triều đã cuốn trôi đi một lượng đất cát
ven biển đáng kể khiến cho chiếc kè mỏ hàn này dần bị vùi sâu xuống lòng cát. Thậm
chí còn có những cái kè bị lấp đi gần hết (Hình 12).
Hình 12: Những chiếc kè mỏ hàn bị vùi sâu dưới lòng cát
Qua hiện trạng trình bày ở trên cho thấy, hệ thống đê biển ở Hải Hậu chưa đủ kiên
cố đảm bảo an ninh cho các hoạt động phát triển. Để khắc phục hiện trạng này, nay hệ
thống đê biển huyện Hải Hậu theo dự án PAM đang được bê tông hóa, gia cố và nâng
cấp trên chiều dài 33,2km.
3.1.2. Diễn biến biến động đường bờ
Vùng bờ biển huyện Hải Hậu đang bị xói lở nghiêm trọng trong nhiều năm qua.
Trong đề tài này em sẽ tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1953 đến
năm 2014. Để có thể hiểu rõ thêm về sự biến động đường bờ của khu vực huyện Hải
Hậu tỉnh Nam Định thì ta sẽ chia khoảng thời gian này làm 7 giai đoạn:
a.
Giai đoạn 1953-1965
b.
Giai đoạn 1965-1989
c.
Giai đoạn 1989-1995
d.
Giai đoạn 1995-2001
e.
Giai đoạn 2001-2005
f.
Giai đoạn 2005-1010
g.
Giai đoạn 2010-2014
Qua nghiên cứu từ các đề tài nghiên cứu trước đây và phân tích ảnh vệ tinh trong
các giai đoạn từ năm 1953-2014, cho thấy ven biển huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định có
những diễn biến như sau:
a. Giai đoạn năm 1953-1965
Trong các năm từ 1953-1965 ở ven biển Hải Hậu có quá trình phát triển diễn ra
khá mạnh, thiên về trạng thái xói lở. Đoạn bờ xói lở có chiều dài tới 16,2km. Ở thời kì
này ven biển Hải Hậu phải chịu liên tiếp các trận bão và áp thấp nhiệt đới. Vùng xói lở
bờ biển rộng lớn nhất tới 800m và trung bình là 130m, tương đương tốc độ xói lở
trung bình 5,2m/năm và lớn nhất 67m/năm [1]. Vùng bồi tụ chính diễn ra ở các vùng
ven biển cửa Lạch Giang (TT. Thịnh Long) và khu vực xã Hải Hòa.
b. Giai đoạn năm 1965-1989
Trong các năm từ 1965-1989 (Hình 13) ở ven biển Hải Hậu phải hứng chịu tác
động liên tiếp của các trận bão, lũ lụt rất lớn trong các năm 1968,1969,1971 và 1973.
Trong giai đoạn này bờ biển huyện Hải Hậu thiên về trạng thái xói lở. Vùng xói lở
rộng nhất tới 900m và trung bình 15m/năm, lớn nhất 90m/năm. Bên cạnh các đoạn bờ
xói lở quá trình bồi tụ diễn ra xen kẽ trên các đoạn ngắn trên đoạn bờ biển thị trấn
Thịnh Long , đới cát Thịnh Long kéo dài thêm 1,5km về hướng Nam Tây Nam, tương
đương tốc độ kéo dài đới cát trung bình 150m/năm [1].
Hình 13: Ảnh từ vệ tinh Landsat 4-5 Thematic Mapper chụp lại địa hình ven biển
huyện Hải Hậu trong giai đoạn từ 1965-1989
c. Giai đoạn 1989 – 1995
Trong các năm từ 1989-1995 (Hình 14) vùng xói lở mạnh nhất diễn ra trên đoạn
bờ các xã Hải Đông và Hải Lý. Các đoạn bờ xói lở mạnh nhất có chiều dài từ 2,2km
đến 2,8km Chiều rộng trung bình vùng xói từ 150m đến 180m, lớn nhất tới 480m;
tương ứng với tốc độ xói lở trung bình 30m/năm và mạnh nhất tới 96m/năm [1]. Đoạn
bờ biển Hải Hậu từ xã Hải Triều đến thị trấn Thịnh Long được bối tụ nhẹ, đới cát dọc
cửa Lạch Giang thuộc thị trấn Thịnh Long tiếp tục bị xói lở mạnh về phía sông Ninh
Cơ, nhưng lại bồi tụ nhẹ ở phía biển.
Hình 14: Ảnh từ vệ tinh Landsat 4-5 Thematic Mapper chụp lại địa hình ven biển
huyện Hải Hậu trong giai đoạn từ 1989-1995
d. Giai đoạn 1995-2001
Vùng ven biển huyện Hải Hậu (Hình 15) trong giai đoạn từ năm 1995-2001 phát
triển trong tình trạng xói-bồi diễn ra xen kẽ và thiên về trạng thái xói lở. Vùng bờ xói
lở kéo dài từ Hải Triều đến thị trấn Thịnh Long kéo dài 15km. Chiều rộng xói trung
bình là 55m, rộng nhất là 130m, tương đương với tốc độ xói trung bình là 9m/năm, lớn
nhất 22m/năm. Vùng bồi tụ có chiều dài từ 1,3km đến 3,4km. Chiều rộng vùng bối từ
150m đến 260m, tương đương tốc độ bồi trung bình là 25m/năm và lớn nhất 95m/năm.
Đới cát nằm dọc cửa Lạch Giang thuộc thị trấn Thịnh Long được bồi tụ nhẹ, phát triển
kéo dài về phía Tây Nam dài thêm 350m [1].
Hình 15: Ảnh từ vệ tinh Landsat 4-5 Thematic Mapper chụp lại địa hình ven biển
huyện Hải Hậu trong giai đoạn từ năm 1995-2001
e. Giai đoạn 2001-2005
Trong giai đoạn này vùng biển ven huyện hải Hậu bị xói lở một cách mạnh mẽ.
Chủ yếu là do cơn bão số 7 vào ngày 23/09/2005 đã làm một số đoạn đê biển bị vỡ,
gây ngập lụt nặng nề cho các xã ven biển. Ở khu vực xã Hải Đông, Hải Lý, đoạn bờ
xói lở có chiều dài tới 9,1km, chiều rộng vùng bờ xói lở từ 50m đến 120m, tốc độ
trung bình 12m đến 30m/năm. Đới cát nằm kề cửa Lạch Giang thuộc thị trấn Thịnh
Long bị xói lở mạnh, chiều dài vùng xói lở tới 1,9km [1] (Hình 16).
Hình 16: Ảnh từ vệ tinh Landsat 4-5 Thematic Mapper chụp lại địa hình ven biển
huyện Hải Hậu trong giai đoạn từ năm 2001-2005