1. Trang chủ >
  2. Kinh Tế - Quản Lý >
  3. Quản lý nhà nước >

- Thị trường KH&CN từng bước được thiết lập và đi vào hoạt đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 97 trang )


đóng góp của các tổ chức, tập thể, tư nhân cũng tăng lên đáng kể. Điều này đã góp

phần làm gia tăng số người tập thể dục thể thao thường xuyên (từ 12% dân số năm

2000 lên 17,4% năm 2004).

Đối với thể thao thành tích cao, sự tham gia của các thành phần kinh tế thể

hiện ở một số xu hướng chủ yếu sau đây:

+ Sự hình thành các cơ sở thể thao tư nhân và các doanh nghiệp thể thao: Các

cơ sở này đã được tư nhân và doanh nghiệp đầu tư khá tốt, có khả năng tổ chức

được các giải thể thao cấp quốc gia và quốc tế. Nhiều cơ sở đã tham gia trực tiếp

vào quá trình đào tạo vận động viên như: CLB Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai, Gạch

Đồng Tâm Long An; CLB Thành Long (Thành phố Hồ Chí Minh); Công ty VST

(Nghệ An); Trung tâm Thể thao Bảo Long (Hà Tây); v.v. Bên cạnh đó, việc các tổ

chức kinh tế và tư nhân mở các trường thể thao thanh thiếu niên nghiệp dư, các

trường lớp năng khiếu thể thao (đơn môn và đa môn) cũng là một hiện tượng mới và

đang có xu hướng phát triển.

+ Sự hình thành các trung tâm thể thao của các đơn vị trong lực lượng vũ

trang và các doanh nghiệp nhà nước lớn (TCT 90, 91): Điển hình trong số này phải

kể đến các trung tâm thể thao của một số Quân khu của Bộ Quốc phòng, các trung

tâm thể thao khu vực I, II của Bộ Công an, Trung tâm thể dục thể thao của Nhà máy

Giấy Bãi Bằng (Phú Thọ), Trung tâm thể thao Ngành Than (Quảng Ninh), v.v. Các

trung tâm này đều được xây dựng với quy mô lớn, có khả năng tổ chức các hoạt

động thi đấu đỉnh cao và đào tạo vận động viên cấp ngành, cấp quốc gia.

+ Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng vào việc tổ chức các giải

thể thao vô địch quốc gia, giải quốc tế từng môn: Từ năm 2000 đến nay, mỗi năm có

hàng chục cơ quan thông tin đại chúng đứng ra làm chủ giải, điển hình là Giải Điền

kinh Cúp Báo Hà Nội mới, Giải Bóng bàn Cúp Báo Nhân dân, Giải Xe đạp Cúp

Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Giải Bóng chuyền nữ quốc tế Cúp VTV, Giải

Bóng đá mini Cúp Báo Nhi đồng, Báo Thiếu niên tiền phong,... Nhờ lợi thế về

phương tiện tuyên truyền, các cơ quan thông tin đại chúng đã thu hút sự quan tâm

rộng rãi của nhân dân đối với các giải thể thao nêu trên cũng như dễ dàng huy động

kinh phí tổ chức, kinh phí giải thưởng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tổ

chức thi đấu.

+ Sự tham gia tài trợ của các tổ chức thể thao quốc tế và các doanh nghiệp tài

trợ ngày càng lớn cho các giải thể thao: Điển hình là các giải bóng đá (vô địch quốc

gia, cúp quốc gia, siêu cúp quốc gia, U21, U18, U16, thiếu niên nhi đồng…) đã thu

hút nguồn tài trợ rất lớn của các tổ chức thể thao quốc tế (FIFA, AFC, AFF…), các

công ty tiếp thị thể thao (Strata, VFD, AML…), các hãng sản xuất dụng cụ thể thao

(Nike, Adidas, Grandsport…) và các doanh nghiệp khác như Pepsi, Coca Cola,



69



Kodak, Kinh Đô, Euro Window, Agribank, v.v. Tổng kinh phí tài trợ lên hàng chục

tỷ đồng mỗi năm. Riêng Liên đoàn Bóng đá Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 đã

huy động được trên 100 tỷ đồng từ các nguồn tài trợ để phục vụ hoạt động của Liên

đoàn.

- Hai là, đổi mới mô hình hoạt động của các cơ sở thể dục thể thao công lập.

Cả nước hiện có 4.244 cơ sở thể dục, thể thao công lập (gồm các trung tâm thể dục

thể thao đơn môn, đa môn, trung tâm văn hoá thông tin- thể thao, trường đào tạo và

các câu lạc bộ thể dục, thể thao công lập), trong đó có 11 cơ sở thuộc Trung ương

quản lý và 4.233 cơ sở do địa phương quản lý. Trong xu thế xã hội hoá, đã có sự

chuyển biến về nhận thức cũng như phương thức quản lý, tổ chức hoạt động của các

cơ sở này, theo hướng đa dạng hoá các loại hình hoạt động để khai thác có hiệu quả

cơ sở vật chất. Một số nơi đã mạnh dạn liên kết với các doanh nghiệp và tư nhân để

đầu tư khai thác các công trình thể thao. Nhưng nhìn chung, việc chuyển đổi các cơ

sở công lập sang mô hình sự nghiệp có thu hoặc cổ phần hoá, tư nhân hoá diễn ra

còn chậm chạp.

- Ba là, kiện toàn hoạt động của các tổ chức xã hội thể dục thể thao. Cùng

với Uỷ ban Olympic Việt Nam là tổ chức xã hội đại diện cho thể thao Việt Nam

trong phong trào Olympic quốc tế, hiện nay nước ta còn có 20 Liên đoàn, Hiệp hội

thể thao quốc gia. Đây là những tổ chức xã hội về thể dục, thể thao, hoạt động theo

nguyên tắc tự quản, chịu sự quản lý nhà nước về thể dục thể thao của Uỷ ban Thể

dục Thể thao. Trong những năm qua, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy tổ chức của các

Liên đoàn, Hiệp hội thể thao quốc gia ngày càng được hoàn thiện. Một số liên đoàn

đã dần tự chủ một phần về tài chính và đã có khả năng điều hành hầu hết các hoạt

động như Liên đoàn Bóng đá, Liên đoàn Bóng chuyền, Liên đoàn Quần vợt,…

Hệ quả tổng thể của những thành tựu nêu trên là rất tích cực trên nhiều mặt,

đáng chú ý là:

(1) Mở rộng và làm phong phú thêm hệ thống thi đấu thể dục, thể thao quần

chúng từ cơ sở tới cấp quốc gia, kích thích phong trào tập luyện và thi đấu thể thao

rộng khắp trong các đối tượng nhân dân.

(2) Góp phần nâng cao chất lượng thi đấu và thành tích thể thao; góp phần

phát hiện tài năng và đầu tư phát triển các môn thể thao mới, có triển vọng để tiếp

cận trình độ quốc tế.

(3) Từng bước tham gia có kết quả vào công tác đào tạo tài năng thể thao trẻ

trên cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.

(4) Tạo thêm công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần giảm

tỷ lệ thất nghiệp.



70



IV.2. Những vấn đề và nguyên nhân

Tuy đã đạt được những thành tựu trên đây, song việc thực hiện cơ chế xã hội

hoá cung ứng dịch vụ công ở nước ta trong thời gian qua đã làm nảy sinh nhiều vấn

đề, có thể tóm tắt sau đây:

- Một là, quá trình xã hội hoá trong các lĩnh vực diễn ra quá chậm chạp so với

tiềm năng và chỉ tiêu định hướng của Nghị quyết 90/CP. Sự chậm chạp này thể hiện

ở chỗ:

+ Việc sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý đối với các cơ sở công lập (các đơn vị

sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước) thuộc các lĩnh vực theo hướng xã hội hoá diễn ra

còn chậm và gặp nhiều khó khăn. Mức độ cũng như tốc độ đầu tư phát triển hệ

thống các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công còn thấp so với nhu cầu.

+ Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước được huy động cho đầu tư phát triển

dịch vụ công còn rất hạn chế. Do vậy, hệ thống các cơ sở ngoài công lập phát triển

chưa mạnh, chưa đa dạng, số lượng chưa nhiều và quy mô nhỏ, chưa đảm bảo dịch

vụ công đến được với đông đảo người dân.

- Hai là, tình trạng hoạt động lộn xộn, tự phát, cạnh tranh thiếu lành mạnh,

chất lượng dịch vụ không bảo đảm,… diễn ra ở các cơ sở ngoài công lập là vấn đề

rất bức xúc. Tình trạng này xảy ra gắn liền với việc tư nhân được phép cung ứng

dịch vụ công. Vì mục đích lợi nhuận, tư nhân luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên

cao, đi kèm với nó là việc xác định giá, cước, phí dịch vụ một cách khá tuỳ tiện và

cơ chế tài chính, thu chi thiếu minh bạch, ảnh hưởng tiêu cực đến những người

hưởng dịch vụ. Việc thành lập các cơ sở ngoài công lập còn mang tính tự phát, thiếu

điều tra, khảo sát kỹ lưỡng, thiếu chuẩn bị các điều kiện để đảm bảo chất lượng dịch

vụ, dẫn đến tình trạng một số cơ sở không duy trì được quy mô ban đầu, thậm chí

phải giải thể. Tình trạng cạnh tranh, kinh doanh thiếu lành mạnh như cung ứng hàng

giả, hàng quá hạn dùng (dược phẩm), mua bằng, bán điểm (giáo dục và đào tạo),

kinh doanh văn hoá độc hại (văn hoá), hối lộ trọng tài, mua bán, cá độ trong thi đấu

(thể dục thể thao),... xảy ra khá phổ biến. Đây là những biểu hiện của tình trạng

“thương mại hoá” các lĩnh vực văn hoá- xã hội đã bị phê phán rất gay gắt trong

nhiều năm qua. Có thể nói rằng những tiêu cực xảy ra trong các lĩnh vực giáo dục và

đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao trong thời gian qua đã gây ra nhiều bức xúc

cho xã hội. Do đây là những lĩnh vực rất nhạy cảm, có ảnh hưởng đến đời sống của

đông đảo nhân dân, vì vậy những tiêu cực càng củng cố thêm những nhận thức sai

về xã hội hoá cung ứng dịch vụ công như đã phân tích trong Mục III Phần III. Đặc

biệt, có những vấn đề đã được bàn thảo ở nhiều diễn đàn khác nhau với sự tham gia

của các chuyên gia đầu ngành (thí dụ, về xã hội hoá giáo dục và đào tạo) nhằm tháo

gỡ những hạn chế và tiêu cực, tuy nhiên kết quả đạt được rất hạn chế.



71



- Ba là, mức độ phát triển xã hội hoá cung ứng dịch vụ công không đồng đều

giữa các vùng, miền và giữa các lĩnh vực cụ thể, thậm chí không đồng đều giữa các

địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội như nhau. Thông thường, công tác xã hội

hoá phát triển mạnh ở những địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi như

các thành phố lớn và các trung tâm kinh tế, còn ở các địa phương có điều kiện kém

thuận lợi như các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thì công tác xã

hội hoá tiến triển chậm. Ngay cả ở các địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội

ngang nhau, mức độ phát triển xã hội hoá cũng không đồng đều do hiệu quả khác

nhau của công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, sự không đồng đều

cũng xảy ra trong các hoạt động cụ thể của từng lĩnh vực. Thông thường, các hoạt

động dễ kiếm lợi nhuận thì xã hội hoá phát triển mạnh và ngược lại, việc xã hội hoá

các hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận thì rất kém phát triển.

- Bốn là, thực tế xã hội hoá cung ứng dịch vụ công ở nước ta đã diễn ra ở khá

nhiều lĩnh vực, ngoài bốn lĩnh vực đã nêu còn có các lĩnh vực như: giao thông vận

tải công cộng; khoa học và công nghệ; sự nghiệp môi trường (vệ sinh môi trường,

cấp, thoát nước,…); sự nghiệp xã hội (chăm sóc người già cô đơn, người tàn tật,

chăm sóc trẻ em, cơ sở cai nghiện,…); v.v. Trong thời gian qua, việc xã hội hoá các

lĩnh vực này đã đạt được một số thành tựu và có xu hướng ngày càng mở rộng,

nhưng đồng thời cũng bộc lộ không ít hạn chế. Trong khi đó, các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước chưa mở rộng đến các lĩnh vực này. Điều ấy gây ra

“khoảng trống pháp lý” và sự không đồng đều của hoạt động xã hội hoá giữa các

lĩnh vực khác nhau.

- Năm là, những hạn chế trong thực hiện xã hội hoá còn thể hiện ở sự kém

hiệu quả trong cung ứng dịch vụ công của khu vực nhà nước (như phân tích trong

Mục II Phần II). Một trong những mục tiêu quan trọng của xã hội hoá cung ứng dịch

vụ công là nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công của Nhà nước, đáp ứng tốt nhu

cầu của nhân dân, tuy nhiên nhìn nhận một cách khách quan thì đến nay mục tiêu

này chưa đạt được. Hơn nữa, đến nay chưa thể có sự hợp tác và cạnh tranh giữa khu

vực nhà nước (các cơ sở công lập) và các khu vực ngoài nhà nước (các cơ sở ngoài

công lập) trong việc cung ứng dịch vụ công trên cơ sở bình đẳng, lành mạnh và hiệu

quả.

Tóm lại, những kết quả thực hiện chủ trương xã hội hoá cung ứng dịch vụ

công ở nước ta trong khoảng 10 năm qua là mang tính pha trộn, tuy nhiên nhìn

chung nó chưa đạt được như mục tiêu đề ra và kỳ vọng của đất nước. Có nhiều

nguyên nhân dẫn đến những vấn đề tồn tại nêu trên, trong đó đáng chú ý là một số

nguyên nhân chủ yếu sau đây:



72



- Một là, nhận thức về xã hội hoá của các ngành, các cấp và người dân còn

nhiều mặt hạn chế, thậm chí còn có những biểu hiện lệch lạc, chưa thấy hết được

tính chất tất yếu và lợi ích lâu dài của công tác xã hội hoá, chưa nhìn nhận đúng vai

trò của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội trong việc tham gia cung ứng dịch

vụ công, còn định kiến với các cơ sở ngoài công lập. Nhận thức về xã hội hoá trong

xã hội chưa có sự thống nhất. Không ít người nghĩ rằng xã hội hoá đồng nghĩa với

tư nhân hoá. Một số người lại hiểu xã hội hoá chỉ có nghĩa là biện pháp tạm thời để

huy động sự đóng góp thêm về tài chính và phương tiện vật chất của nhân dân trong

lúc ngân sách nhà nước còn eo hẹp. Những người khác lại cho rằng xã hội hoá chỉ

thực hiện trong các cơ sở ngoài công lập cung ứng dịch vụ công, còn các cơ sở công

lập thì không cần thực hiện xã hội hoá. Bên cạnh đó, vẫn còn những quan điểm khác

nhau về một số vấn đề liên quan đến quan hệ sở hữu, phạm vi, mức độ, quy mô, loại

hình cơ sở xã hội hoá, liên quan đến đầu tư vốn, quản lý, lợi nhuận và phi lợi nhuận,

lợi ích kinh tế của các cá nhân tham gia xã hội hoá, v.v. Tư duy, thói quen bao cấp

vẫn còn khá phổ biến trong lãnh đạo các ngành, các cấp.

- Hai là, trong phần lớn thời gian thực hiện xã hội hoá vừa qua, các ngành

chưa có một quy hoạch tổng thể về phát triển xã hội hoá để định hướng và xác định

bước đi cụ thể phù hợp cho từng vùng, từng lĩnh vực, đề ra tầm nhìn chiến lược về

đổi mới các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công và phát triển các cơ sở cung ứng

dịch vụ công ngoài công lập,… Mặc dù chủ trương xã hội hoá đã được thực hiện từ

năm 1997 nhưng đến năm 2005, sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết

05/2005/NQ-CP, một số ngành mới ban hành quy hoạch phát triển xã hội hoá trong

ngành mình14. Sự chậm trễ này là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng tự

phát, sự không đồng đều trong thực hiện xã hội hoá, và một số vấn đề khác trong

công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý thực hiện xã hội hoá của các cấp, các ngành.

Mặt khác, việc phối hợp các mặt công tác giữa các cơ quan chức năng như kinh tế,

tài chính, ngân hàng, kế hoạch, đầu tư,... trong triển khai Nghị quyết 90/CP còn

thiếu đồng bộ dẫn đến chậm trễ trong thực hiện xã hội hoá.

- Ba là, môi trường pháp lý cho việc xã hội hoá và quản lý các hoạt động

cung ứng dịch vụ công ngoài công lập còn nhiều hạn chế. Một số chính sách xã hội

hoá chưa quy định rành mạch về sở hữu của các cơ sở ngoài công lập, chưa phân

biệt rõ sự khác biệt giữa các hoạt động có bản chất lợi nhuận và phi lợi nhuận của

Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy hoạch phát triển xã hội hoá giáo dục giai đoạn 20052010; Bộ Y tế ban hành Đề án phát triển xã hội hoá bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân

dân; Bộ Văn hoá- Thông tin ban hành Quy hoạch phát triển xã hội hoá hoạt động văn hoá đến năm

2010; Uỷ ban Thể dục Thể thao ban hành Đề án phát triển xã hội hoá thể dục thể thao đến năm

2010; Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành Đề án phát triển xã hội hoá dạy nghề đến

năm 2010.

14



73



các cơ sở cung ứng dịch vụ công. Hệ thống các văn bản pháp quy chậm được các

Bộ, ngành, địa phương hướng dẫn, phổ biến; những quy chuẩn về các mô hình bán

công, dân lập, tư thục, quy chế tổ chức và hoạt động của các cơ sở ngoài công lập

còn chậm được ban hành và chưa đồng bộ, nên kém hấp dẫn người sử dụng. Còn

chồng chéo giữa hướng dẫn luật đầu tư và luật chuyên ngành. Giữa thẩm quyền cấp

phép đầu tư và trách nhiệm quản lý chuyên ngành chưa có quy định thống nhất và

phối hợp chưa tốt, dẫn đến tình trạng lỏng lẻo, có những kẽ hở dễ nảy sinh tiêu cực.

Bên cạnh đó, hiệu lực thực thi của một số chính sách liên quan đến xã hội

hoá chưa cao. Các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, cơ sở vật chất, nguồn

nhân lực dành cho các cơ sở thực hiện xã hội hoá (theo Nghị định 73/1999/NĐ-CP)

ít phát huy tác dụng, do các đối tượng được hưởng ưu đãi còn hẹp, mức độ ưu đãi

thấp, thủ tục rườm rà, sự chậm trễ trong hướng dẫn thực hiện,… Cơ chế hỗ trợ

nguồn lực của Nhà nước cho các đơn vị ngoài công lập chưa được thể chế hoá đầy

đủ thành những quy định cụ thể, chưa được thực hiện đồng đều ở các địa phương và

có địa phương chưa quan tâm đúng mức. Hơn nữa, một số chính sách cụ thể đã tỏ ra

không còn phù hợp khi nhiều chính sách chung đã thay đổi theo thời gian. Những

hạn chế trên được thể hiện ở một số điểm sau đây:

+ Chính sách về đất đai và cơ sở vật chất:

Nhìn chung, xã hội rất đồng tình với chính sách đất đai của Chính phủ đối

với các cơ sở ngoài công lập cung ứng dịch vụ công; tuy nhiên, việc thực hiện còn

phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương, nên phạm vi tác dụng của chính sách còn

hẹp. Ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh việc các cơ sở

ngoài công lập xin được giao đất là rất khó khăn, việc ưu tiên thuê nhà, cơ sở hạ

tầng của Nhà nước chưa thực hiện được; có những đơn vị vốn đầu tư phát triển lớn

(thí dụ các trường đại học) nhưng không được giao đất xây dựng nên vẫn phải đi

thuê trường sở. Có cơ sở phải thuê đất dài hạn giá cao của tư nhân. Một số tư nhân,

tập thể có nhà đất cho các cơ sở ngoài công lập thuê vẫn chưa được hưởng đầy đủ

quyền lợi ưu tiên về thuế theo Nghị định 73.

+ Chính sách về phí và lệ phí:

Nhược điểm lớn nhất của chính sách học phí được thực hiện trong thời gian

qua là chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, chưa tạo điều kiện

để thực hiện “lá lành đùm lá rách”, vùng giàu giúp vùng nghèo, người giàu giúp

người nghèo.

Biểu giá thu viện phí không còn phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội hiện

nay. Chế độ thu viện phí chưa khuyến khích người bệnh đến khám chữa bệnh ở

tuyến dưới, tuyến cơ sở. Chưa thực hiện được phương châm thu đúng thu đủ của



74



những người có khả năng chi trả, miễn giảm viện phí cho người nghèo, người sống

tại các vùng có nhiều khó khăn.

Phí, lệ phí của ngành văn hoá, thể dục thể thao được điều chỉnh bởi nhu cầu

hưởng thụ của xã hội. Nhưng nhìn chung, giá dịch vụ và sản phẩm văn hoá, thể dục

thể thao còn cao so với mặt bằng thu nhập của toàn xã hội.

Trong việc thực hiện chính sách phí và lệ phí, vừa có tình trạng chưa thu

đúng, thu đủ, lại vừa có tình trạng tự đặt ra những khoản thu ngoài quy định, lạm

thu, cơ chế sử dụng không minh bạch, sử dụng không hiệu quả, gây bất bình trong

dư luận xã hội.

+ Chính sách về thuế, tín dụng, huy động vốn và đầu tư của Nhà nước:

Về chính sách thuế, các đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi còn hẹp, mức

độ ưu đãi thấp, mức thuế suất ở từng địa bàn còn quá cao nên tác dụng khuyến khích

và thúc đẩy xã hội hoá chưa cao. Có nơi, có lúc, cán bộ thuế địa phương vẫn yêu cầu

các cơ sở ngoài công lập nộp những khoản thuế đã được miễn theo quy định của

Nhà nước.

Về tín dụng, việc thực hiện chính sách ưu đãi phụ thuộc vào quyền của các

ngân hàng, do vậy không phải tất cả các cơ sở ngoài công lập đều có thể được vay

tiền khi cần thiết; vẫn còn những ý kiến phản ánh về sự phiền hà, khó khăn khi vay

tiền.

Về huy động vốn, việc nhân dân góp cổ phần xây dựng trường đã được Nghị

quyết 90 đề cập đến nhưng chưa được cụ thể hoá trong Nghị định 73 và vản bản

hướng dẫn nên chỉ một vài nơi thực hiện được.

Về chính sách đầu tư của Nhà nước, nhìn chung đầu tư còn dàn trải, chưa tới

ngưỡng để tạo bước phát triển cơ bản, hiệu quả thấp. Việc hỗ trợ của Nhà nước cho

các cơ sở ngoài công lập còn hạn chế cả về cơ chế chính sách cả về nguồn lực thực

tế. Chủ trương chuyển một số cơ sở công lập sang bán công và dân lập là một

phương thức đầu tư ban đầu của Nhà nước vẫn chưa thực hiện được do chưa có cơ

chế cho việc chuyển đổi này.

+ Chính sách nhân lực:

Về chính sách nhân lực, nhìn chung các Bộ ngành và địa phương chưa chăm

lo đào tạo, phát triển nhân lực ngoài công lập cả về số lượng, cơ cấu, trình độ nghề

nghiệp, phẩm chất đạo đức, thực hiện các chế độ chính sách... Điều đó dẫn đến sự

hẫng hụt về đội ngũ, yếu về trình độ và bộc lộ các tiêu cực. Mặt khác, cán bộ, nhân

viên của các cơ sở ngoài công lập chưa thật sự được bình đẳng như các cơ sở công

lập.



75



- Bốn là, việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với các cơ sở cung

ứng dịch vụ công ngoài công lập chưa chặt chẽ và chưa nghiêm. Công tác kiểm tra,

thanh tra có làm nhưng chưa được thường xuyên; việc kiểm tra, thanh tra chuyên

môn, tài chính chưa nghiêm túc; còn có sự nhầm lẫn giữa chức năng thanh tra chế

độ, chính sách và thanh tra chuyên môn. Công tác thanh tra, kiểm tra chủ yếu chỉ

chú trọng đến đối tượng hành nghề (các cơ sở cung ứng dịch vụ công ngoài công

lập) mà chưa tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với chính các cơ quan quản lý nhà nước

trong việc thực hiện quản lý các cơ sở này. Sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra và

các cơ quan khác như công an, quản lý thị trường còn yếu, làm ảnh hưởng đến chất

lượng thanh tra. Bên cạnh đó, việc xử lý vi phạm đối với các cơ sở ngoài công lập

còn chưa nghiêm, xử sai, vượt quá thẩm quyền, không dứt khoát,… dẫn đến tình

trạng coi thường pháp luật hoặc kiện cáo kéo dài. Các bộ, ngành chức năng chưa có

bộ phận theo dõi, hướng dẫn và đánh giá việc thực hiện xã hội hoá của ngành mình,

làm cơ sở để trình Nhà nước các định hướng lớn trong phát triển xã hội hoá. Vì vậy,

các chủ trương, chính sách nhìn chung chậm được điều chỉnh để đáp ứng được yêu

cầu của thực tiễn.



76



PHẦN IV

CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HOÁ CUNG

ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI

I. “XÃ HỘI HÓA CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG” ĐẶT TRONG BỐI CẢNH

“ĐỔI MỚI CUNG ỨNG VÀ QUẢN LÝ DỊCH VỤ CÔNG”

Có thể nói rằng, xã hội hoá cung ứng dịch vụ công là một chủ trương lớn của

Đảng và Nhà nước ta, tuy nhiên nó chỉ là một bộ phận của công cuộc đổi mới và

phát triển dịch vụ công nói chung.

Xin nhắc lại khái niệm về dịch vụ công được đề cập trong cuốn sách này, đó

là “những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, do Nhà nước trực tiếp

đảm nhận hay uỷ quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm đảm

bảo lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, và trật tự, công bằng xã hội”. Từng

loại dịch vụ công có những đặc điểm riêng, khoa học, nghiệp vụ riêng. Đảng và Nhà

nước ta đã dựa trên cơ sở nhận thức những đặc điểm riêng, vận dụng khoa học,

nghiệp vụ riêng của từng loại hình dịch vụ công để đề ra chủ trương chính sách,

biện pháp toàn diện về đổi mới và phát triển từng loại dịch vụ công. Ví dụ về giáo

dục và đào tạo, nghị quyết đại hội X của Đảng vạch rõ chủ trương tổng quát là:

“Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý,

nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”,

chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”.

Riêng trong phạm vi cung ứng và quản lý dịch vụ công, thì việc đổi mới cung

ứng và quản lý dịch vụ công ở Việt Nam, giống như ở nhiều nước trên thế giới, là

cấp thiết, nhằm làm rõ vai trò, chức năng của Nhà nước nâng cao hiệu quả và chất

lượng dịch vụ công, phục vụ tốt hơn các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân,

đảm bảo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và ổn định, công bằng xã hội, tạo nền

tảng và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Xét trong bối

cảnh đổi mới tổng thể của nước ta kể từ năm 1986 đến nay, có thể nói rằng công

cuộc đổi mới cung ứng và quản lý dịch vụ công được thực hiện chậm hơn so với

công cuộc đổi mới kinh tế và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến giai đoạn hiện nay là

giai đoạn cần đẩy nhanh đổi mới cung ứng và quản lý dịch vụ công, hỗ trợ và cộng

lực với đổi mới kinh tế và doanh nghiệp để tranh thủ cơ hội mới và vượt qua thách

thức khi hội nhập kinh tế quốc tế được nâng tầm cao hơn.

Hiện nay, Bộ Nội vụ đang xây dựng Đề án “Đổi mới quản lý dịch vụ công”

để trình Chính phủ phê duyệt. Theo dự thảo Đề án này, mục tiêu đổi mới quản lý

dịch vụ công là “nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát



77



huy các nguồn lực xã hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ công,

đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của người dân và cộng đồng”. Đề án đã đề

ra những quan điểm, nguyên tắc và phương hướng đổi mới quản lý dịch vụ công ở

nước ta như sau:

- Thứ nhất, quan điểm và nguyên tắc đổi mới:

+ Đổi mới quản lý dịch vụ công trên cơ sở nhận thức sâu sắc về nền hành

chính phục vụ; đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong đảm bảo cung ứng dịch vụ

công, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người dân và xã hội.

+ Đảm bảo công bằng xã hội, đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tối thiểu cho tất cả

mọi người, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ nhu cầu đa dạng, phong phú của

các tầng lớp nhân dân.

+ Phân biệt rõ tổ chức và hoạt động dịch vụ công với quản lý hành chính nhà

nước và quản lý sản xuất, kinh doanh. Xác lập cơ chế quản lý phù hợp với đặc điểm,

tính chất của mỗi loại hình.

+ Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư cho các dịch vụ công, nhưng không

bao cấp tràn lan. Tập trung ưu tiên đầu tư ngân sách cho các dịch vụ công trọng

điểm, phục vụ người nghèo, vùng sâu, vùng xa.

+ Đẩy mạnh xã hội hoá các dịch vụ công, thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã

hội tham gia cung ứng dịch vụ công, đa dạng hoá các chủ thể cung ứng dịch vụ

công.

+ Đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức cung ứng dịch

vụ công. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý và cung ứng dịch vụ công.

+ Xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền trong quản lý và tổ chức

cung ứng dịch vụ công. Đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương các cấp.

+ Đảm bảo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận trong hoạt động cung

ứng dịch vụ công, trước hết là đối với các cơ sở công lập.

- Thứ hai, phương hướng đổi mới:

+ Quan tâm thực hiện cuộc cải cách mạnh mẽ, cơ bản trong lĩnh vực dịch vụ

công, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và với sự chuyển đổi vai trò, chức năng

của Nhà nước.

+ Đổi mới hệ thống thể chế, chính sách về tổ chức và cung ứng dịch vụ công

trên cơ sở phân biệt và xác định rõ các loại dịch vụ công: dịch vụ công do Nhà nước

phải chịu trách nhiệm trực tiếp cung ứng; dịch vụ công mà Nhà nước hỗ trợ; dịch vụ

công có thể chuyển giao cho thị trường và xã hội.



78



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

×