1. Trang chủ >
  2. Kinh Tế - Quản Lý >
  3. Quản lý nhà nước >

II. ĐỔI MỚI CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 97 trang )


vực cung cấp dịch vụ công. Phần lớn dịch vụ công được toàn xã hội tiến hành, nhà

nước chỉ giữ lại những dịch vụ cần thiết nhất theo hướng “nhà nước nhỏ như cần

thiết, xã hội lớn như có thể”.

Hộp 2: Những biến chuyển trong chủ trương cung ứng dịch vụ công của

Chính phủ Anh

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của người dân, và trước áp lực của

Liên minh Châu Âu, Chính phủ Anh đang tập trung chú ý vào việc nâng cao chất

lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ công mà trước hết là giáo dục, y tế, giao thông,

môi trường. Cụ thể là:

- Trong tổ chức và quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ công có sự tách bạch

khá rõ ràng giữa những lĩnh vực hoạt động do nhà nước tài trợ hoàn toàn như y tế,

giáo dục với những dịch vụ được tư nhân hóa như vệ sinh môi trường, cấp nước

sạch, giao thông công cộng.

- Phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm giữa chính phủ và chính quyền địa



phương trong việc quản lý các dịch vụ công khá rõ ràng, rành mạch. Có những lĩnh

vực chỉ có cấp trung ương chịu trách nhiệm thực hiện (như y tế, giáo dục bậc đại

học, cung cấp nước sạch), có lĩnh vực cả cấp trung ương và địa phương quản lý

(dịch vụ môi trường). Nhìn chung, trong việc tổ chức và quản lý các hoạt động dịch

vụ công, chính phủ đề ra chiến lược, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và

phân bổ ngân sách,… còn chính quyền địa phương thực hiện ký kết hợp đồng với

các công ty tư nhân và giám sát, kiểm tra việc thực hiện.

- Nghĩa vụ và trách nhiệm cung ứng dịch vụ công của các cơ quan, tổ chức nhà

nước và tư nhân cũng như của các cá nhân, tổ chức hưởng thụ dịch vụ được luật hóa

một cách đầy đủ, chi tiết.

- Chính phủ tích cực tạo hành lang pháp lý và thúc đẩy cơ chế cạnh tranh giữa khu

vực công và khu vực tư cũng như giữa các tổ chức thuộc khu vực công để nâng cao

hiệu quả và chất lượng dịch vụ công.

- Quyền tự chủ về tài chính và nhân lực của các đơn vị trực tiếp cung ứng dịch vụ

công được bảo đảm, đồng thời chính phủ và các chính quyền địa phương tăng

cường kiểm tra, giám sát và có biện pháp xử lý kịp thời để bảo đảm tính liên tục của

các dịch vụ.

Bốn nguyên tắc cải cách dịch vụ công của Thủ tướng Anh Tony Blair

- Xây dựng các chuẩn mực chung có tính quốc gia đáp ứng nhu cầu của người

dân và thoả mãn các đòi hỏi của EU; xác định rõ trách nhiệm thực hiện để đảm bảo

người dân dù là ai, ở đâu đều có quyền nhận được các dịch vụ có chất lượng cao.

- Thực hiện nguyên tắc phân cấp, phân quyền và uỷ quyền để nâng cao tính

chủ động sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của các bộ phận trực tiếp tiếp xúc với dân



11



và cho các cơ quan chính quyền địa phương trong cung cấp dịch vụ công. Theo đó,

chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm một phần đáng kể chi phí cho việc

cung ứng các dịch vụ công như giáo dục, các dịch vụ xã hội, chăm sóc người tàn tật

và giao thông công cộng.

- Tạo điều kiện cho các cơ sở cung ứng dịch vụ như y tế, giáo dục có khả

năng trả thêm lương cho công chức; thực hiện nguyên tắc khuyến khích tính năng

động và tự chủ của các cơ sở. Từ năm 1998 gần một nửa giáo viên phổ thông được

tăng 25% lương do gắn với kết quả giảng dạy, lương cho y tá mới nâng cao trình độ

tăng1/3, các bệnh viện công đang thử nghiệm trả lương gắn với kết quả hoạt động.

Theo dự kiến bệnh viện sẽ trả thêm 6000 bảng/năm cho mỗi nhân viên nếu hoàn

thành nhiệm vụ.

- Thực hiện nguyên tắc mở rộng khả năng lựa chọn cho khách hàng, đảm bảo

cho người dân có quyền lựa chọn và yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn không chỉ

từ khu vực tư nhân mà cả từ khu vực công. Ví dụ như việc chọn trường học cho trẻ

em, bệnh viện điều trị khi ốm đau, hoặc hệ thống cung cấp nước sạch tốt hơn và rẻ

hơn. Từ tháng 7/2002, bệnh nhân đợi mổ tim nếu quá 6 tháng sẽ được giới thiệu đến

mổ ở một bệnh viện khác tránh tình trạng đợi quá lâu.

Nguồn: Theo Báo cáo của Đoàn Công tác Bộ Nội vụ khảo sát, nghiên cứu hành

chính công, dịch vụ công ở Anh, 2004



Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhận thức từ phía các cơ quan công

quyền và từ chính những người dân về sự cần thiết phải có sự chuyển biến trong

cung ứng dịch vụ công. Đó là, thứ nhất, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ

của khu vực tư nhân về phương diện kinh tế, những thành tựu khoa học công nghệ

đã làm cho khu vực tư nhân có thể tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về

nhà nước. Thí dụ, kỹ thuật truyền hình cáp phát triển cho phép nắm được thời gian

sử dụng của từng máy thu hình, hoặc qua thiết bị tự ghi có thể đo chính xác lượng

sử dụng khí ga, điện, nước của từng hộ tiêu thụ ( để thu tiền). Thứ hai, sự thay đổi

về mức sống tạo điều kiện cho cá nhân có thể tự mua sắm cho mình những phương

tiện mà trước đây chỉ có thể sử dụng công cộng. Có thể thấy rõ điều này trong cung

ứng dịch vụ công về lĩnh vực văn hóa; nếu như trước đây, người dân chỉ có thể xem

phim ảnh tại các rạp chiếu công cộng, thì nay người ta có thể xem tại nhà qua đầu

máy VCD, DVD. Ngoài ra, sự thay đổi về mức sống của người dân theo hướng chất

lượng cuộc sống ngày một nâng cao đòi hỏi số lượng các loại hình và chất lượng

dịch vụ cũng cần phải ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội. Thứ

ba, lý do quan trọng khiến nhà nước cần đổi mới cơ chế cung ứng dịch vụ công

thông qua cải cách và chuyển giao dần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư

nhân là sự kém hiệu quả của khu vực công so với khu vực tư nhân trong lĩnh vực



12



này. Theo J. E. Stiglitz, thì các dự án nhà ở công cộng thường tốn kém hơn nhà ở

của khu vực tư nhân khoảng 20%; chi phí thu gom rác thải do khu vực công cộng

thực hiện thường cao hơn khu vực tư nhân 20%; chi phí phòng cháy, chữa cháy của

khu vực tư nhân (nhưng do nhà nước cấp tiền) thấp hơn của khu vực công cộng

47%. Khảo sát ở 58 quốc gia đang phát triển cho thấy chỉ có 6% số người được hỏi

đánh giá dịch vụ công do nhà nước cung cấp là có hiệu quả còn 36% trả lời là không

hiệu quả. Đặc biệt, dịch vụ xây dựng đường sá và dịch vụ y tế bị đánh giá là kém

hiệu quả nhất2. Lý do cuối cùng buộc nhà nước phải có những chuyển biến để giao

một số lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cho khu vực ngoài nhà nước là vì điều đó sẽ

giúp nhà nước giảm nhẹ được gánh nặng ngân sách, huy động được các nguồn lực

tiềm tàng của xã hội. Lấy ví dụ trong lĩnh vực y tế, mặc dù ở hầu hết các nước, nhà

nước đều đảm nhận vai trò to lớn trong cung ứng dịch vụ y tế vì đây là một loại

hàng hóa công cộng rất đặc biệt, song nhà nước không thể là người cung ứng duy

nhất các dịch vụ này do mức độ chi phí lớn của nó. Theo một tài liệu khảo sát, chi

tiêu cho chăm sóc y tế trong GDP nói chung đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn từ

1965 đến 1983 với mức tăng ít nhất là 50%, trong đó có năm nước đạt mức tăng trên

70%. Với mức tăng như vậy, ngân sách nhà nước khó mà chịu nổi và sự tham gia

của khu vực tư nhân là tất yếu. Ở Mỹ, tỷ lệ chi của nhà nước trong tổng chi tiêu

chăm sóc sức khỏe đạt khoảng 40% mỗi năm kể từ 1974 đến nay3. Phần chi còn lại

đến từ các nguồn kinh phí của tư nhân, các tổ chức xã hội hoặc tiền bảo hiểm.

Để thực thi có hiệu quả các chức năng của nhà nước, các cơ quan công quyền

phải linh hoạt, mềm dẻo để thích ứng với các điều kiện phức tạp và thay đổi nhanh.

Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, nếu nhà nước tự thân thực thi toàn bộ các

chức năng của mình mà bỏ qua các nhân tố thị trường và xã hội thì sẽ dẫn tới một

nhà nước yếu và một xã hội kém phát triển. Cũng vậy, trong lĩnh vực cung ứng dịch

vụ công, nếu nhà nước chỉ sử dụng bộ máy của mình để cung ứng dịch vụ thì chắc

chắn sẽ dẫn tới những bất cập cả về khối lượng và chất lượng cung ứng. Do đó,

cùng với việc phải đổi mới hiệu quả cung ứng dịch vụ công ngay trong khu vực nhà

nước, điều quan trọng là nhà nước phải chuyển giao các loại dịch vụ công mà xã hội

có thể đảm nhiệm đi đôi với việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo chất lượng và

hiệu quả cung ứng dịch vụ công.

Hộp 3: Các hình thức chuyển giao dịch vụ công trên thế giới

1- Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước cung

ứng dịch vụ công cho tư nhân hoặc một tập thể;

Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo

thường niên năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3

J. E. Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

2



13



2- Nhà nước bán một phần cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ

công ra ngoài xã hội;

3- Nhà nước cho thuê doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công đối với tư nhân hoặc

tập thể;

4- Khoán kinh doanh cung ứng dịch vụ công cho tư nhân hoặc tập thể;

5- Ký hợp đồng hoặc đơn đặt hàng với các doanh nghiệp hoặc tổ chức trong việc

cung ứng dịch vụ công theo yêu cầu của nhà nước;

6- Cho phép các doanh nghiệp hoặc tổ chức tư nhân tham gia vào các lĩnh vực cung

ứng dịch vụ công và chịu sự quản lý của nhà nước thông qua luật lệ và quy chế.

Nguồn: Lê Chi Mai (2003).



II.2. Đẩy mạnh sự tham gia của khu vực phi nhà nước trong cung ứng dịch vụ

công

Thực ra, việc khu vực phi nhà nước cung ứng dịch vụ công đã có từ thời xa

xưa. Lịch sử cho thấy rằng, hầu hết các dịch vụ y tế đều được thực hiện trên cơ sở tư

nhân bởi những bà đỡ, các thầy lang. Tại các nước đang phát triển, đô thị hóa và

công nghiệp hóa mạnh mẽ đã dẫn đến việc thành lập các nhóm lao động và họ đã tự

tổ chức để cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế thông qua “những quỹ đề phòng ốm đau”

hoặc đề nghị thành lập các hệ thống bảo hiểm xã hội được nhà nước cấp kinh phí.

Chỉ đến thế kỷ XX nhà nước mới giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các

dịch vụ xã hội như giáo dục và y tế, và ngày nay, trong trào lưu cải cách nhà nước

trên khắp thế giới, việc cung ứng dịch vụ công lại được chuyển từng phần thích hợp

cho khu vực phi nhà nước, và đang trở thành một xu thế phát triển. Thực tế cho

thấy, khu vực phi nhà nước đã ngày càng thâm nhập vào các hoạt động cung ứng

dịch vụ công, chẳng hạn như trong lĩnh vực làm sạch môi trường, cung cấp điện,

nước,… Ngay cả ở những lĩnh vực mà theo truyền thống chỉ do nhà nước quản lý và

thực hiện, thì nay cũng trở thành địa bàn hoạt động của khu vực tư nhân. Ở Mỹ hiện

nay, nhiều nhà tù tại các bang đã được giao cho khu vực tư nhân quản lý, nhiều loại

dịch vụ cảnh sát đã được giao cho các công ty tư nhân đảm nhiệm. Ngoài ra, khu

vực tư nhân cũng được phép tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục và y tế, là loại dịch

vụ mà nhà nước giữ vai trò cơ bản vì chúng liên quan trực tiếp đến mục tiêu phát

triển của mỗi quốc gia. Ở phần lớn các nước trên thế giới tồn tại song song hai hệ

thống giáo dục công lập và giáo dục dân lập. Sự phát triển hệ thống trường tư thục

đã tạo điều kiện cạnh tranh về chất lượng giảng dạy giữa hai hệ thống. Tất nhiên,

các trường tư phải chịu sự quản lý của nhà nước về nội dung giảng dạy, bảo đảm

theo một chương trình chuẩn, thống nhất. Việc chuyển dần mô hình trường công

lập sống nhờ bao cấp nhà nước với sức ỳ quán tính sang định chế hội đồng quản trị

tư doanh đã thúc đẩy tính năng động, sáng tạo và cạnh tranh của các cơ sở giáo dục.



14



Hộp 4: “Thị trường hóa” giáo dục ở Anh

Theo sách trắng của Chính phủ Anh, việc cải cách giáo dục nước này bao gồm

việc tiến đến “thị trường hoá” giáo dục ở từng địa phương. Qua mô hình này, các

trường được “thị trường hoá” có quyền cạnh tranh với hệ trường tiểu – trung học nhà

nước hiện hưũ . Nội dung thị trường hoá được thể hiện như sau:

-Phụ huynh, các cơ quan phúc lợi xã hội, kể cả doanh nghiệp được khuyến

khích hình thành và điều hành các trường định chế tư thực;Nhóm đối tác vừa nêu có

quyền xây dựng “thương hiệu riêng”, xây dựng giáo trình thích hợp, miễn không ra

ngoài các chỉ tiêu vĩ mô của chính phủ liên quan đến phát triển kinh tế- xã hội. Đặc biệt

khuyến khích nội dung giảng dạy đổi mới khoa học- kỹ thuật;

-Chấm dứt sự can thiệp của các cấp chính quyền địa phương vào việc tuyển

sinh, chọn giáo viên, kể cả thuê mướn ban giám hiệu. Chính quyền địa phương không

được ngăn trở các kế hoạch phát triển cơ sở trường ốc;

-Hiệu trưởng hành xử chức năng như một giám đốc điều hành. Hiệu trưởng giỏi

và có năng lực quản lý được khuyến khích tiếp nhận điều hành các trường kém. Từ đó

hình thành chuỗi trường dưới quyền một hội đồng quản trị mà hiệu trưởng thực tài trở

thành chủ tịch;

-Các trường có quyền ký hợp đồng thuê mướn, thải hồi và ấn định quy chế

lương bổng cho các đối tượng nhân sự phục vụ tại trường.

Nguồn: Thời báo kinh tế Sài gòn, ngày 24/11/2005



Bằng việc chuyển hoạt động cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân,

nhà nước có thể sử dụng cạnh tranh giữa các nhà cung ứng dịch vụ với nhau để có

được nhà cung ứng dịch vụ có hiệu quả nhất. Chính vì thế, thúc đẩy cạnh tranh

trong cung ứng dịch vụ giữa khu vực công và tư đang là một mục tiêu được nhiều

nước hướng tới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng. Sử dụng thị trường để

cung ứng những dịch vụ cạnh tranh sẽ giảm bớt chi phí và cải tiến chất lượng dịch

vụ, san sẻ gánh nặng của nhà nước và tiến tới xây dựng mối quan hệ hợp tác nhà

nước- thị trường. Theo E.X. Xavat, một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về cạnh tranh

trong dịch vụ công cộng, thì ưu thế rõ ràng nhất của cạnh tranh là nó đem lại hiệu

quả lớn hơn, nhiều hiệu quả hơn cho đồng vốn4. Theo một nghiên cứu của Ngân

hàng thế giới, ở Braxin, việc ký hợp đồng với các chủ đầu tư tư nhân về bảo dưỡng

David Osborne, Ted Gaebler, Đổi mới hoạt động của chính phủ .- H. NXB Chính trị quốc

gia, 1997



4



15



đường sá đã tiết kiệm được 25% chi phí so với việc sử dụng các công ty nhà nước.

Cũng vậy, bằng cách áp dụng cơ chế cạnh tranh vào việc sản xuất và cung ứng dịch

vụ công, nhà nước tạo ra môi trường ganh đua tích cực giữa khu vực công và tư.

Chẳng hạn, với việc cho phép các công ty tư nhân tham gia tổ chức cung ứng dịch

vụ vận tải nội địa, Chính phủ Niu Dilân đã tạo ra được sự cạnh tranh giữa các tổ

chức cung ứng dịch vụ vận tải, qua đó nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, làm

giảm cước phí vận chuyển. Ngay cả ở các nhà nước phúc lợi như Đan Mạch, Phần

Lan và Thụy Điển, hiện nay, việc thúc đẩy cạnh tranh giữa khu vực công và tư đang

là một tiêu điểm của các nhà hoạch định chính sách. Ở Đan Mạch, hầu hết các dịch

vụ xã hội là do nhà nước cung cấp, được tài trợ thông qua hệ thống thuế với mức

thuế thu nhập cá nhân rất cao, song nước này chỉ đạt chỉ số cạnh tranh về sản xuất

dịch vụ công ở dưới mức trung bình. Vì vậy, từ năm 2002, mục tiêu tăng cạnh tranh,

tăng hiệu quả, chất lượng, đổi mới và tăng sự lựa chọn đối với dịch vụ công đã trở

thành mối quan tâm của chính phủ Đan Mạch. Chính phủ đã có sáng kiến về tăng

cạnh tranh và khuyến khích quan hệ hợp tác công- tư. Điều này cũng được thể hiện

rõ trong trường hợp Phần Lan. Là một nhà nước phúc lợi, song Phần Lan là nước có

truyền thống duy trì hệ thống bệnh viện tư từ nhiều thập kỷ. Sự tồn tại của hệ thống

bệnh viện tư một mặt gây sức ép về nâng cao chất lượng y tế tại các cơ sở công, mặt

khác là nguồn cung ứng thêm dịch vụ cho người sử dụng, tạo cho họ quyền lựa chọn

dịch vụ rộng rãi hơn. Chính sách cạnh tranh giữa các bệnh viện tư (về chất lượng

dịch vụ, về mức phí và nhằm tăng thị phần) đã tác động tới hệ thống y tế công và

đặt khu vực này vào tình thế phải cải cách.

Như vậy, trong việc thúc đẩy cạnh tranh, hoạt động của nhà nước không đơn

thuần là điều tiết, mà còn khuyến khích và tạo động lực thị trường. Chính phủ tạo ra

một sân chơi bình đẳng cho mọi đối tượng có khả năng cung cấp dịch vụ công để

tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ, và người tiêu dùng

các dịch vụ công được quyền tự do lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ. Nhiều bằng

chứng thực tế cho thấy khi các tổ chức cung ứng dịch vụ công bước vào cuộc cạnh

tranh thì mọi việc đều thay đổi. Những tổ chức nào cung ứng dịch vụ chất lượng

kém với giá cả cao thì dần bị xóa bỏ, trong khi những tổ chức cung ứng dịch vụ chất

lượng cao với giá cả phải chăng thì ngày càng phát triển. Chính sự cạnh tranh đã

buộc các tổ chức cung ứng dịch vụ phải luôn luôn tự đổi mới và điều đó mang lại lợi

ích cho cả người dân, nhà nước và nhà cung ứng dịch vụ.

Một trong những chuyển biến quan trọng trong cung ứng dịch vụ công trong

những năm gần đây là sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các tổ chức xã hội dân

sự, bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ

chức phi chính phủ, các cá nhân…Việc mở rộng sự tham gia của các lực lượng xã

hội này cùng nhà nước vào cung ứng dịch vụ công đã tạo ra một môi trường cạnh



16



tranh lành mạnh, phá vỡ sự bất bình đẳng, phi thị trường do độc quyền gây ra trong

lĩnh vực này, huy động được các nguồn lực cộng đồng và phát huy vai trò của các

đối tác xã hội trong quản lý xã hội. Vai trò của các tác nhân này trong cung ứng các

dịch vụ công cho xã hội thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:

- Là cánh tay nối dài của nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cá nhân, của

cả cộng đồng xã hội để tăng thêm nguồn lực đáp ứng các yêu cầu của xã hội về các

dịch vụ công;

- Là một trong những chức năng cơ bản của tổ chức dân sự trong hoạt động

vận động quần chúng và gắn bó với lợi ích cơ bản của người dân, là cầu nối giữa

nhà nước và nhân dân trong cung cấp dịch vụ công;

- Thực hiện vai trò đại diện và bảo vệ lợi ích của người hưởng thụ dịch vụ

công, đảm bảo công bằng và đúng với chính sách của nhà nước;

- Tham gia bổ sung, hoàn thiện chính sách của nhà nước trong lĩnh vực dịch

vụ công đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả năng của nền

kinh tế.

Thực tế cho thấy ngày càng nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ công được mở

rộng cho nhiều nhóm lợi ích trong xã hội có khả năng cung ứng. Đó là các hiệp hội

nghề nghiệp, các nhóm cộng đồng, các hợp tác xã, các hội từ thiện, các tổ chức của

phụ nữ, thanh niên, và các tổ chức phi chính phủ khác,… Các tổ chức này đã tham

gia tích cực vào việc cung ứng dịch vụ trực tiếp cho các cá nhân và cộng đồng, từ

dịch vụ y tế, giáo dục cho tới những dịch vụ cho vay tín dụng nhỏ, hoặc đào tạo

hướng nghiệp. Ở các nước phát triển và đang phát triển, nhiều tổ chức xã hội hoạt

động song song với những cơ quan cung ứng dịch vụ công của nhà nước. Ví dụ, một

số nước đã giao cho các nhóm cộng đồng tự quản xây dựng và khai thác các công

trình phúc lợi xã hội trong địa phận sinh sống của họ. Ở một số nước khác, chính

phủ lại ủy quyền cho các hiệp hội nghề nghiệp cấp giấy phép hành nghề, điều hành

và kiểm soát các hội viên. Nhiều bằng chứng cho thấy các tổ chức như vậy thường

có nhiều lợi thế khi thực hiện cung ứng dịch vụ công vì họ có cơ chế hoạt động rất

linh hoạt và gần gũi hơn với người dân.

Việc cho phép khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội tham gia cung ứng các

dịch vụ công ích mang lại lợi ích đáng kể. Với việc huy động các nguồn vốn xã hội

cho sự phát triển kết cấu hạ tầng, như hệ thống đường sá, giao thông vận tải, thông

tin, vệ sinh môi trường…, hiệu quả cung ứng các dịch vụ công trong những lĩnh vực

này đã tăng mạnh, đi đôi với việc tiết kiệm một tỷ lệ lớn ngân sách nhà nước. Đối

với các dịch vụ đường phố như quét dọn, sửa chữa, xây dựng, duy tu và bảo dưỡng,

chi phí cũng giảm đi khi thực hiện phương thức ký hợp đồng với các thành phần



17



kinh tế khác. Cũng vậy, sự tham gia của khu vực phi nhà nước vào cung ứng dịch

vụ công tạo điều kiện cho nhiều người tham gia vào hoạt động này, phát huy được

khả năng và nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy tính sáng tạo và chủ động

của người dân, qua đó đa dạng hóa và tăng cường nguồn cung ứng các dịch vụ công

cho xã hội.

Tóm lại, ngày nay phạm vi các dịch vụ công được chuyển giao cho khu vực

tư nhân và các tổ chức xã hội ngày càng mở rộng. Hầu hết các quốc gia áp dụng

nguyên tắc lĩnh vực nào thị trường và xã hội có thể đảm nhiệm được thì nhà nước

chuyển giao dần ở một mức độ nhất định trách nhiệm cung ứng dịch vụ công ở lĩnh

vực đó. Ở những lĩnh vực dịch vụ không thể chuyển giao được cho khu vực tư nhân

và các tổ chức xã hội, thì nhà nước phải giữ vai trò cung ứng nòng cốt và phải tiến

hành cải cách ở trong chính khu vực nhà nước để cải thiện chất lượng cung ứng các

loại dịch vụ này. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh một lần nữa rằng, dù nhà nước trực tiếp

cung ứng dịch vụ hay chuyển giao cho các khu vực khác, thì với vai trò là người

đảm bảo công bằng xã hội, nhà nước vẫn có nghĩa vụ quan tâm đến việc đạt được

những mục tiêu chính của hoạt động cung ứng dịch vụ công thông qua kiểm soát,

điều tiết và bảo hộ để thị trường và xã hội cung ứng các dịch vụ đó một cách thuận

lợi.

II.3. Cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước

Cho dù khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội ngày càng tham gia nhiều hơn

vào cung ứng dịch vụ công, song khu vực nhà nước vẫn tất yếu là người cung ứng

một số lớn dịch vụ. Chính vì vậy, trong đổi mới cung ứng dịch vụ công, việc cải

thiện chất lượng cung ứng dịch vụ ở ngay chính khu vực nhà nước là hết sức quan

trọng. Bên cạnh chức năng quản lý nhà nước, chức năng phục vụ của nhà nước

nhằm cung cấp những dịch vụ cần thiết cho người dân để họ thực hiện tốt quyền lợi

và nghĩa vụ của mình giờ đây cần được chú trọng hơn bao giờ hết.

Nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công không phải là một vấn đề mới

mẻ. Ngay từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Pháp đã đưa ra các chu trình chất

lượng thử nghiệm trong các cơ quan nhà nước. Trước yêu cầu của người dân hiện đã

trở thành “người tiêu dùng đòi hỏi cao”, vấn đề chất lượng trong cung ứng dịch vụ

công của nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Nguyên tắc chất lượng trong cung

ứng dịch vụ công của các cơ quan nhà nước đã chính thức được đề cập tới trong

Hiến chương dịch vụ công của Pháp ngày 18 tháng 3 năm 1992 và văn bản ngày

26/7/1996 về cải cách Nhà nước Pháp. Hiến chương đưa ra một loạt các biện pháp

nhằm đảm bảo cung ứng dịch vụ thiết yếu như trường học, bệnh viện, cảnh sát, bưu

điện cho những nơi xa xôi. Điều quan trọng là Hiến chương đã yêu cầu các cơ quan

xây dựng chỉ số hiệu suất và chú trọng sự hợp tác giữa cơ quan nhà nước cung cấp



18



dịch vụ và người sử dụng. Theo đó mỗi cơ quan nhà nước phải “cố gắng làm cho

người dân biết rõ mục tiêu của mình, điều chỉnh các chỉ số chất lượng theo nhu cầu

của người sử dụng dịch vụ”.

Các nhà nước cũng đang tiến hành nhiều cải cách khác nhau nhằm mục đích

nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công thông qua các đơn vị nhà nước. Một số

nước phát triển như Anh, Mỹ hiện đang thử nghiệm một số phương pháp để tăng

cạnh tranh trong nội bộ khu vực nhà nước nhằm cải thiện việc cung ứng các dịch vụ

công không thể chuyển giao được cho khu vực phi nhà nước.

Ngoài ra, việc phi tập trung hóa cung ứng dịch vụ công thông qua phân cấp,

phân quyền, cũng là một biện pháp có hiệu quả để gây sức ép cạnh tranh nhằm nâng

cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công của khu vực nhà nước. Lý do căn bản mang

tính nội tại của phi tập trung hóa cung ứng dịch vụ công là quyền quyết định sản

xuất và cung ứng dịch vụ công phải được trả lại cho những đơn vị thấp nhất, có khả

năng nắm bắt được tình hình một cách rõ ràng nhất. Việc phi tập trung hóa tạo điều

kiện cho các chính quyền địa phương linh hoạt hơn trong cung ứng các dịch vụ công

phù hợp với hoàn cảnh của địa phương mình, đồng thời buộc họ trở nên có trách

nhiệm hơn. Việc phân cấp này làm tăng hiệu quả và hiệu lực cung ứng dịch vụ công,

qua đó người tiêu dùng sẽ được hưởng những dịch vụ chất lượng cao với giá cả hợp

lý.

Hộp 5: Phi tập trung hóa trách nhiệm: kinh nghiệm của Pháp, Anh,

Tây Ban Nha và Thụy điển

- Pháp: Theo các luật về phi tập trung hóa năm 1982, Nhà nước Pháp đã trao thẩm

quyền cho các khu vực và các ban, ngành trong nhiều lĩnh vực như phát triển đô thị,

các biện pháp hỗ trợ kinh tế và giao thông địa phương. Các luật này cũng phân cấp

cho chính quyền khu vực trách nhiệm về xây dựng và bảo dưỡng các trường phổ

thông trung học (tương tự như trách nhiệm của các xã đối với các trường tiểu học

vốn đã tồn tại hàng thế kỷ), trong khi vẫn giữ trách nhiệm về hầu hết các chính sách

giáo dục khác ở cấp trung ương.

- Tây Ban Nha: Tại đây, việc thành lập các cộng đồng tự quản đã dẫn đến việc

chuyển giao đáng kể các trách nhiệm, kể cả việc phi tập trung hóa hệ thống giáo

dục, y tế cũng như các công trình công cộng, nông nghiệp, bảo vệ môi trường, phát

triển vùng và trợ giúp xã hội.

- Anh: việc phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm giữa chính phủ và chính quyền địa

phương ở Anh trong việc quản lý dịch vụ công khá rõ ràng, rành mạch, trong đó

chính phủ tập trung đề ra chiến lược, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và

phân bổ ngân sách, thực hiện kiểm toán, còn chính quyền địa phương thực hiện ký

kết hợp đồng với các công ty tư nhân và giám sát, kiểm tra việc thực hiện.



19



- Thuỵ Điển: Có sự phân cấp rõ những dịch vụ công mà từng cấp chính quyền phải

đảm nhiệm, trong đó đặc biệt chú ý các dịch vụ công về phúc lợi công cộng hoàn

toàn miễn phí (như bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp xã hội,…).

Nguồn: Phục vụ và duy trì: cải thiện hành chính công trong một thế giới

cạnh tranh/ Ngân hàng phát triển châu Á.- H. CTQG, 2003; và các nguồn khác.



Về cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước, vấn

đề kiểm soát tài chính và quản lý đóng một vai trò quan trọng. Trong nhiều trường

hợp, do rất khó đo lường những sản phẩm đầu ra của khu vực nhà nước, nên cần có

chế độ kiểm tra tài chính và đặt chế độ chịu trách nhiệm cá nhân, nhằm buộc cán bộ

quản lý phải làm việc hết mình để tránh tình trạng sử dụng không hiệu quả các

nguồn lực công cộng và nhằm cải thiện việc cung ứng dịch vụ. Khảo sát nhiều nước

cho thấy một phần đáng kể công quỹ quốc gia được phân bổ cho các dịch vụ xã hội

cơ bản đã không đến được các bệnh viện và trường học như dự kiến, nhất là ở các

vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa5. Với tình trạng như vậy, cho dù nhà nước có

dành một phần ngân sách rất lớn cho cung ứng dịch vụ công, thì hiệu quả cũng rất

thấp. Điều đó dẫn đến sự méo mó trong bức tranh cung ứng dịch vụ công, vì nhà

nước đã đầu tư rất nhiều vào hoạt động này, song hậu quả là người dân không được

hưởng ở mức xứng đáng những phúc lợi đó. Vì vậy, tăng cường việc kiểm soát tài

chính và quản lý là giải pháp không thể thiếu nhằm cải thiện chất lượng cung ứng

dịch vụ công trong khu vực nhà nước.

Một vấn đề quan trọng cần lưu ý trong việc cải cách nhằm nâng cao chất

lượng dịch vụ công trong khu vực nhà nước chính là yếu tố con người. Ở bất kỳ lĩnh

vực nào, con người luôn đóng vai trò then chốt quyết định sự thành, bại của cải

cách, và trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cũng vậy. Chính vì thế, nhiều nước

đã tập trung nhiều biện pháp để nâng cao năng lực chuyên môn của công chức thông

qua việc cải tiến công tác cán bộ và khuyến khích sự tham gia của công chức vào

hoạt động quản lý, tăng cường uỷ quyền và trách nhiệm cá nhân. Phương thức tuyển

dụng và đề bạt theo phẩm chất mà nhiều nước sử dụng đã làm cho bộ máy viên chức

có được lực lượng cán bộ, nhân viên chất lượng cao. Bên cạnh việc nâng cao năng

lực chuyên môn, đối với đội ngũ viên chức trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ

công, cần đặc biệt chú ý nâng cao phẩm chất, đạo đức phục vụ khách hàng. Kinh

nghiệm của nhiều nước chỉ ra rằng một khi người viên chức có ý thức trong công

việc, có thái độ tận tụy phục vụ khách hàng thì hiệu quả công việc sẽ tăng lên rất

nhiều. Có thể thấy rõ vấn đề này qua trường hợp Bang Ceara của Brazin trong hộp

dưới đây:

Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo

thường niên năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.



5



20



Hộp 6: Xây dựng tinh thần tận tụy của nhân viên: chính quyền tốt tại

Bang Ceara của Braxin

Năm 1987, ngoài hoạt động hành chính kém cỏi, chính quyền bang Ceara ở Đông

Bắc Braxin còn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính gay go. Tuy

nhiên, chỉ trong vòng 4 năm, cuộc khủng hoảng tài chính đã được khắc phục, và

chất lượng của các dịch vụ đã được cải thiện đáng kể. Diện được tiêm chủng văcxin

phòng bệnh sởi và bệnh bại liệt đã tăng gấp ba, từ 25% lên tới 90% tổng số trẻ em.

Chương trình công chính của bang này đã tạo việc làm cho hơn một triệu nông dân

không có việc làm trong thời kỳ hạn hán…

Sự thành công này phần lớn là do công lao của bộ máy viên chức. Bằng việc khen

thưởng cho những người làm việc tốt, công khai xét tuyển nhân viên mới, thi hành

các chương trình định hướng và loan tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về

thành công của mình, chính quyền bang đã tạo nên một ý thức mạnh mẽ về sứ mạng

trong các chương trình chủ chốt và những người thực hiện chương trình. Những

viên chức có động cơ tốt đã đảm đương nhiều phần việc hơn bình thường, và nhiều

khi với thái độ tự nguyện. Được trao quyền quyết định rộng hơn, các viên chức

cung ứng được nhiều dịch vụ theo đúng yêu cầu riêng của các khách hàng. Khác

với ở những nơi khác, tuy cho quyền rộng hơn, nhưng cơ hội để làm điều tiêu cực

không tăng vì đã có những áp lực đòi hỏi nhân viên phải chịu trách nhiệm. Nhân

viên muốn làm việc tốt hơn để xứng đáng với niềm tin mới của khách hàng đối với

họ. Và bản thân điều này là kết quả của việc sắp xếp công việc theo hướng phục vụ

đúng các yêu cầu của khách hàng và chính quyền bang công khai tỏ ra tôn trọng

họ….

Những cơ chế này đã tạo ra một vòng luân hồi mà trong đó nhân viên cảm thấy

được quý trọng và thừa nhận, không nhất thiết là bởi cấp trên, mà bởi những khách

hàng của họ và những cộng đồng ở nơi họ làm việc. Và điều này đã củng cố tinh

thần tận tụy của họ đối với công việc.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi,

Báo cáo thường niên năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.



21



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

×