Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 97 trang )
phá sản, nên họ chưa có động lực để giảm chi phí, hạ giá thành và nâng cao hiệu quả
cung ứng dịch vụ công. Đối với những dịch vụ thu tiền, giá cả dịch vụ không phản
ánh đúng chi phí bỏ ra; trong một số trường hợp, quy định giá của Nhà nước thấp
hơn chi phí, trong khi có những dịch vụ do đơn vị cung ứng tự định giá lại nâng lên
quá cao. Có thể thấy rõ vấn đề này trong ngành điện, một ngành thuộc nhà nước
độc quyền trong việc cung ứng dịch vụ. Người dân và doanh nghiệp bất bình vì giá
điện tăng liên tục, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất. Trong khi
đó, ngành điện đưa ra rất nhiều lý do để tăng giá. Giá điện có thể không tăng, hoặc
tăng ở một mức độ hợp lý nếu ngành điện cải tiến phương thức quản lý, tránh thất
thoát điện năng, và giảm bớt tham nhũng, lãng phí trong việc xây dựng, vận hành
các nhà máy phát điện và mạng lưới phân phối điện. Vụ tiêu cực trong việc lắp đặt
điện kế điện tử ở Thành phố Hồ Chí Minh mà công luận lên án gay gắt trong thời
gian vừa qua là một minh chứng cho sự thiếu trách nhiệm và kém hiệu quả của cơ
quan nhà nước trong cung ứng dịch vụ công.
Các loại trợ cấp và ưu đãi của Nhà nước đối với các cơ quan cung ứng dịch
vụ công như trợ giá, tín dụng ưu đãi, miễn thuế sử dụng đất,…trong nhiều trường
hợp lại đem đến các kết quả tiêu cực. Việc được hưởng những ưu đãi đã không làm
cho các đơn vị này hoạt động hiệu quả hơn, mà thay vào đó lại nuôi dưỡng tư tưởng
ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nước, và triệt tiêu tính năng động, sáng tạo của các đơn vị
đó. Trong cung ứng dịch vụ công của các đơn vị nhà nước, sự bao cấp về cung ứng
dịch vụ công cũng có thể dẫn đến tình trạng tiêu dùng quá mức cần thiết, làm tăng
gánh nặng ngân sách trong khi số lượng và chất lượng của việc cung cấp dịch vụ
vẫn không được bảo đảm.
Một hạn chế nữa trong việc cung cấp dịch vụ công của Nhà nước là sự thiếu
vắng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người dân. Các
hoạt động cung cấp dịch vụ công mang tính “cào bằng” không còn khả năng đáp
ứng đầy đủ, kịp thời và tốt các nhu cầu khác nhau của các bộ phận dân chúng trong
xã hội. Người dân hiện nay không còn là những người thụ động cầu xin dịch vụ của
Nhà nước, mà họ đã trở thành những khách hàng, do vậy họ có quyền sử dụng dịch
vụ và đòi hỏi được phục vụ một cách tốt nhất. Cơ chế cung ứng dịch vụ công hiện
nay của Nhà nước ta chưa thích ứng với thực tế này.
29
Hộp 8 : Sự yếu kém của hệ thống giáo dục công lập
Ở nước ta, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu nên ngân sách đầu tư
mỗi ngày một tăng. Năm 2005, số tiền đầu tư vào lĩnh vực này đã lên tới 4 tỷ USD
(2 tỷ của Nhà nước và 2 tỷ của dân), cùng với số tiền khoảng 900 triệu USD vay
của nước ngoài và 3.000 tỷ đồng tiền công trái giáo dục. Đây là số tiền tương đối
lớn so trong hoàn cảnh ngân sách chung của Việt Nam hiện nay9. Công cuộc cải
cách giáo dục cũng đã được tiến hành từ nhiều năm nay, và bước đầu đạt được một
số kết quả nhất định. Tuy vậy, hệ thống giáo dục của Việt Nam vẫn đang trong tình
trạng đáng báo động về nhiều phương diện dẫn đến chất lượng giáo dục bị giảm sút,
một nguy cơ lớn đối với sự phát triển chung của toàn dân tộc. Quản lý giáo dục ở
Việt Nam mang tính tập trung. Các chính sách giáo dục đều do Bộ Giáo dục và đào
tạo chỉ thị từ Trung ương. Điều đó dẫn đến việc đưa ra các chính sách xa rời thực tế
của mỗi địa phương, làm chậm sự phát triển của từng vùng nói riêng và cả nước nói
chung. Khác hẳn với hệ thống giáo dục ở nhiều nước khác là vừa cung cấp cho sinh
viên những kiến thức cơ bản, vừa tạo cho họ một khả năng tư duy để phân tích và
tổng hợp sự kiện, thì giáo dục Việt Nam có tính từ chương và nhồi nhét vào đầu các
sinh viên càng nhiều sự kiện càng tốt, không tạo cho họ có tính tự chủ và tự lập để
sau này có khả năng tự giải quyết các vấn đề10.
Trong lĩnh vực giáo dục, chưa có sự phát triển cân đối giữa giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục phổ thông; quy mô, chất lượng và hiệu quả
giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; đội ngũ giáo viên còn thiếu, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của đổi mới
giáo dục; công tác quản lý giáo dục còn hạn chế, nhất là đối với giáo dục không
chính quy và giáo dục ngoài công lập; nhiều giáo viên, nhà trường chưa tích cực đổi
mới phương pháp dạy và học; các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều
bất cập; giáo dục vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn; việc phong học hàm,
học vị không đặt lên hàng đầu tiêu chuẩn chất lượng đã làm xấu đi hình ảnh và uy
tín của người thầy trong xã hội. Đặc biệt, một trong những vấn nạn của ngành giáo
dục Việt Nam là việc chạy theo bằng cấp, mua điểm, sự tha hóa về đạo đức của một
số giáo viên. Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan đã và đang gây ra nhiều hậu
quả tiêu cực, làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo, uy tín của các thầy
9
Chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam năm 2005 chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ có 7,2%.
10
Thời báo kinh tế Sài gòn, ngày 25-11-2004
30
cô giáo, sức khỏe và khả năng tiếp thu của các em học sinh. Một yếu tố khác làm
ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng giáo dục chính là việc thiếu trang thiết bị
dạy học. Tình trạng dạy chay, học chay của thầy và trò vẫn đang diễn ra không chỉ
ở những vùng nông thôn, vùng sâu, mà còn ở cả những thành phố lớn.
Mặc dù theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Việt Nam có tới 94% dân số biết chữ,
và đã xóa xong nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực thi phổ cập
trung học cơ sở, song trên thực tế, có khoảng 6,8 triệu người trên 10 tuổi chưa từng
đến trường và trong số đó có 5,3 triệu người hoàn toàn chưa biết chữ. Một trong
những nguyên nhân của nạn mù chữ đó là chi phí trực tiếp cho giáo dục ở Việt Nam
khá cao so với thu nhập của các hộ nghèo. Bên cạnh đó, ở Việt Nam hiện nay, số
lao động được đào tạo nghề chỉ đạt 25% so với tổng số lao động, có nghĩa là còn
75% lao động không được đào tạo. Tất cả những yếu tố trên đã làm suy giảm
nghiêm trọng chất lượng giáo dục ở Việt Nam, đẩy nền giáo dục Việt Nam tụt hậu
xuống hàng thấp nhất ở khu vực Đông Nam Á.
Thực trạng trên của ngành giáo dục đặt ra vấn đề phải tiến hành cải cách để
nâng cao chất lượng giáo dục. Dư luận xã hội cho rằng đã đến lúc phải nhìn thẳng
vào sự thật để mổ xẻ tận gốc nguyên nhân của sự trì trệ trong ngành giáo dục. Cải
cách giáo dục phải sâu rộng chứ không đơn thuần là tăng thêm kinh phí cho các
trường hay những giải pháp chắp vá mỗi khi có sự phản ứng của xã hội. Đối với
giáo dục cấp đại học, cần thiết phải chú trọng tới phương thức quản lý, quyền tự
chủ, trước tiên là tự chủ về đào tạo của các trường, thay đổi nội dung chương trình
và phương pháp dạy và học, đào tạo lại và sàng lọc đội ngũ giảng viên và xây dựng
những chính sách xã hội thoả đáng trong giáo dục. Trong những năm gần đây, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã cho phép các trường trọng điểm quốc gia được đề xuất một
số chương trình đào tạo hiện đại dựa trên cơ sở tham khảo các chương trình đào tạo
nước ngoài mà không bị ràng buộc bởi chương trình khung của Bộ. Hy vọng rằng,
với sự chuyển biến mới này, chất lượng đào tạo trong các trường đại học sẽ có sự
cải thiện đáng kể.
Ở nước ta hiện nay, câu hỏi nên hay không nên coi giáo dục là một loại hàng
hóa đặc biệt đang là một vấn đề còn gây tranh cãi. Song một điều rõ ràng là nếu để
cho khu vực tư nhân chiếm vị trí chủ đạo trong việc cung ứng dịch vụ giáo dục thì
sẽ xảy ra tình trạng nhiều người có năng lực không đủ điều kiện để đi học. Xã hội
sẽ bị tổn thất to lớn do không tận dụng được trí tuệ của những người này. Vì vậy, để
tạo ra sự công bằng, Nhà nước có trách nhiệm cung ứng loại dịch vụ này cho tất cả
người dân của mình ở một mức độ nhất định, tạo tiền đề cần thiết cho mỗi công dân
phát huy được hết khả năng của mình. Với ý nghĩa như vậy, thì Nhà nước phải giữ
một vai trò cốt yếu trong phát triển giáo dục, và việc cải cách giáo dục hướng tới
một hệ thống giáo dục toàn diện có chất lượng và khắc phục những khiếm khuyết
hiện nay trong hệ thống này phải là trách nhiệm chính của Nhà nước. Với chủ
31
trương mới của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa giáo dục, việc cho phép khu vực
tư nhân và các tổ chức xã hội dân sự tham gia vào lĩnh vực này sẽ góp phần thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục, đào tạo lên một bước mới.
Thực tế cho thấy rằng, trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, Nhà nước ta
đã cố gắng rất nhiều nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Ở một mức độ nhất định,
Nhà nước đã đảm bảo được việc cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho toàn xã
hội. Trong một số lĩnh vực như giáo dục, y tế, chúng ta đã đạt được những kết quả
đáng kể. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu nói trên, hoạt động cung ứng dịch vụ
công của Nhà nước còn nhiều thiếu sót. Để hoạt động cung ứng dịch vụ công được
tốt hơn nữa, chúng ta cần từng bước cải tiến hoạt động của những cơ quan nhà nước
cung ứng dịch vụ công, đổi mới cơ cấu tổ chức và quy trình cung ứng dịch vụ. Điều
quan trọng là phải thúc đẩy sự cạnh tranh trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công
thông qua việc chuyển giao một phần các dịch vụ công cho khu vực tư nhân và các
tổ chức xã hội dân sự. Đó chính là những yêu cầu về đổi mới cung ứng dịch vụ công
được đề cập đến trong phần sau.
II.2. Bộ máy hành chính nhà nước còn nhiều bất cập
Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước đang bộc lộ nhiều điểm yếu, không phù
hợp với chức năng của nền hành chính nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường
và do đó không có khả năng cung ứng những dịch vụ mà thực tế đòi hỏi. Nền hành
chính vẫn còn mang nặng dấu ấn của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp
ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới cũng như yêu cầu phục vụ người
dân trong điều kiện mới, hiệu quả quản lý còn thấp. Các bộ, ngành, địa phương vẫn
theo mô hình quản lý cũ, mang nặng tính quan liêu, hình thức. Có nhiều loại dịch vụ
mà dân có nhu cầu đã không được quan tâm giải quyết đúng mức, thí dụ như dịch
vụ cung cấp thông tin, tư vấn, hỗ trợ việc làm,… Ngoài ra, chức năng, nhiệm vụ
quản lý của bộ máy hành chính chưa được xác định phù hợp; sự phân công, phân
cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch. Việc quy định thẩm quyền,
phân công trách nhiệm không rõ ràng cùng với sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong những công việc có tính chất liên ngành đã làm giảm chất lượng
cung ứng dịch vụ công của Nhà nước. Một vấn đề nghiêm trọng nữa là hệ thống thể
chế hành chính còn chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành
chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự kỷ cương chưa nghiêm.
Phương thức tổ chức bộ máy hành chính chưa khoa học, còn cồng kềnh, vừa tập
trung quan liêu, vừa phân tán; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp
với hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công.
Việc các đơn vị nhà nước cung ứng dịch vụ công chịu sự quản lý của cơ
quan chủ quản tương tự như đơn vị hành chính, đã dẫn đến tình trạng các cơ quan
32
này không phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động và phát
triển của mình. Tất cả mọi kế hoạch và chương trình hoạt động thường được cấp
trên giao cụ thể, như chỉ tiêu tuyển sinh, số giường bệnh, số phim phát hành trong
năm,… Về tài chính, đơn vị sự nghiệp là đơn vị dự toán như cơ quan hành chính,
chỉ dựa vào một nguồn đầu vào từ ngân sách nhà nước, chi và thu đều theo dự toán
được cấp trên duyệt. Về tổ chức cán bộ, cấp trên quyết định định biên, tuyển chọn
cán bộ nhân viên; việc sắp xếp lương bổng, cử cán bộ đi nước ngoài, thành lập đơn
vị trực thuộc, v.v. đều phải được cấp trên phê duyệt. Điều đó dẫn tới sự trì trệ trong
nâng cao tính sáng tạo và cải tiến hiệu quả công việc của cán bộ, nhân viên trong
các cơ quan nhà nước.
Với cơ chế vận hành như hiện nay của bộ máy hành chính, người dân khó có
thể tham gia và giám sát một cách có hiệu quả, qua đó cải thiện chất lượng cung ứng
dịch vụ công của khu vực nhà nước. Tình trạng thiếu trách nhiệm giải trình và vô ý
thức trách nhiệm từ phía các cơ quan công quyền về việc cung cấp thông tin cho
công chúng đã cản trở đáng kể việc tham gia và giám sát của người dân đối với hoạt
động cung ứng dịch vụ hành chính công. Ngoài ra, nhiều ý kiến đóng góp tích cực
của người dân không được các cơ quan hữu quan đón nhận. Nghiêm trọng hơn, việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân còn nhiều vướng mắc, không dứt điểm,
và không tuân thủ pháp luật. Hiện tượng né tránh giải quyết hoặc giải quyết không
đúng các yêu cầu của người dân diễn ra phổ biến, làm cho người dân mất dần lòng
tin vào các cơ quan công quyền, yếu tố về lâu dài có thể gây ra những bất ổn xã hội
nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, phương thức và thủ tục cung ứng dịch vụ công còn rườm rà,
nặng về tạo ra sự thuận tiện cho bên cung ứng chứ chưa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu
của người dân. Có thể thấy rõ điều này nhất trong lĩnh vực dịch vụ hành chính công.
Để nhận được một giấy phép nào đó, người dân phải đi đến nhiều cơ quan nhà nước
khác nhau; thời gian giải quyết công việc kéo dài, làm mất cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp, hoặc tốn thời gian của người dân. Vì những lý do như vậy, để đỡ mất
thời gian và công sức, nhiều người đã phải chọn cách khoán trọn gói cho các “cò
dịch vụ” thay mình đi làm các thủ tục. Ngoài ra, thủ tục hành chính còn thiếu rõ
ràng, thiếu thống nhất, không công khai và tùy tiện thay đổi, thiên về xử lý các giải
pháp tình thế, bị động trước yêu cầu phát triển nhanh của thực tế. Điều nguy hiểm là
ở một số nơi còn xảy ra tình trạng thương mại hóa các loại dịch vụ do Nhà nước
đảm trách.
Một yếu tố cơ bản khác làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng cung ứng dịch vụ
công của Nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất,
tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn và kỹ năng hành chính; phong cách làm
33
việc chậm đổi mới, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu dân tiếp tục diễn ra nghiêm
trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức. Trong các cơ quan cung ứng dịch vụ
công, đặc biệt là ở các cơ quan có trách nhiệm tiếp xúc trực tiếp với người dân, thái
độ của nhiều công chức còn mang nặng tính quan liêu, cửa quyền, gây rất nhiều
phiền hà cho người dân.
Có thể thấy rằng, với những tồn tại trong bộ máy hành chính như phần trên
đã đề cập, thì chất lượng cung ứng dịch vụ công do khu vực nhà nước cung cấp sẽ bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Do vậy, trước những yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế
- xã hội trong thời kỳ mới, đòi hỏi Nhà nước, mà trực tiếp là bộ máy hành chính
phải hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực quản lý theo cơ chế mới nhằm phục vụ
tốt hơn những yêu cầu chung của toàn xã hội.
II.3. Thiếu hụt ngân sách trong cung ứng dịch vụ công
Mặc dù nguồn kinh phí từ ngân sách cho hoạt động sự nghiệp tăng nhanh hơn
các lĩnh vực khác, song vẫn ở mức rất hạn chế, không bảo đảm được chi phí cần
thiết của các đơn vị nhà nước cung ứng dịch vụ công. Thí dụ, mức ngân sách dành
cho ngành y tế còn khá thấp với mức chi năm 1997 là 3,8%, và năm 2001 là 3,2%.
Sự eo hẹp về ngân sách chi cho việc cung ứng dịch vụ công đã gây nhiều khó khăn
cho các đơn vị nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng loại dịch vụ này. Khi Nhà nước
giao cho đơn vị thực hiện nhiều hoạt động dịch vụ công miễn phí hoặc thu phí rất
thấp, nhưng lại không bảo đảm cho các đơn vị này các điều kiện thực hiện cần thiết
về nhân lực, công nghệ, tài chính,…thì việc hoàn thành các nhiệm vụ được giao của
các đơn vị này là cực kỳ khó khăn.
Mức ngân sách hạn hẹp như vậy đã ảnh hướng rất lớn đến hiệu quả cung ứng
dịch vụ công, làm thu hẹp diện dịch vụ được cung ứng cũng như chất lượng dịch vụ,
trước hết là không đủ trả lương thỏa đáng cho cán bộ, nhân viên trong các ngành
cung ứng dịch vụ công, nhất là các giáo viên, cán bộ y tế, công nhân vệ sinh môi
trường, tiếp đó là không đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trong khi ấy, nhu cầu của
nhân dân về các lĩnh vực này đang tăng lên nhanh chóng với đòi hỏi cao hơn về chất
lượng khi mức sống ngày một cải thiện. Thực trạng này dẫn đến những bất cập
trong việc cung ứng dịch vụ công của Nhà nước, đồng thời làm phát sinh những
hiện tượng tiêu cực, phá huỷ nền tảng đạo đức của xã hội.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự eo hẹp của nguồn ngân sách nhà nước. Xét
trên bình diện vĩ mô, do Việt Nam là một nước nghèo, với mức thu nhập bình quân
đầu người thuộc nhóm thấp nhất trên thế giới, nên ngân sách nhà nước dành cho các
dịch vụ công hạn hẹp cũng là điều dễ hiểu. Trong khi đó, việc phân bổ cũng như
việc huy động các nguồn thu cho ngân sách lại không hợp lý. Trường hợp cung ứng
dịch vụ công cũng vậy. Rõ ràng rằng, thu nhập của các tầng lớp trong xã hội hiện
34
nay đã có sự phân hóa rõ rệt, nhưng Nhà nước vẫn duy trì chế độ thu phí mang tính
chất bình quân, không phân biệt mức thu nhập. Chính điều này đã góp phần dẫn tới
tình trạng không đủ nguồn lực để trang trải các chi phí cần thiết để đảm bảo chất
lượng cũng như số lượng về cung ứng dịch vụ công.
Hộp 7: Những tồn tại trong cung ứng dịch vụ y tế của Nhà nước
Trước đây, Nhà nước bao cấp phần lớn trong việc cung ứng dịch vụ y tế với
chế độ khám, chữa bệnh không mất tiền và mang tính bình quân. Sự dàn trải đó dẫn
đến nhiều khó khăn cho ngân sách nhà nước nói chung và ngành y tế nói riêng. Với
khoản bao cấp quá lớn như vậy, Nhà nước không đủ tiền để trợ cấp đầy đủ cho hoạt
động chăm sóc sức khỏe và khiến cho ngành y tế luôn ở trong tình trạng thiếu thốn
ngân sách kinh niên. Các cơ sở y tế địa phương không đủ kinh phí cho xây dựng,
nâng cấp kết cấu hạ tầng, trang thiết bị, thuốc men và đào tạo. Kết quả là các bệnh
viện bị xuống cấp nghiêm trọng, tiền lương của y, bác sĩ quá thấp khiến họ không
còn động lực làm việc, và điều tất yếu xảy ra là chất lượng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe ngày một yếu kém. Do những khó khăn về kinh phí từ ngân sách, kể từ năm
1989 Nhà nước đã áp dụng chế độ thu một phần viện phí để làm giảm nhẹ gánh
nặng đối với Nhà nước trong lĩnh vực này. Song, nhìn chung các cơ sở y tế công
vẫn chủ yếu dựa vào nguồn chi từ ngân sách nhà nước, mà trên thực tế số tiền này
chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu chi tiêu của ngành y tế.
Sự thiếu thốn về kinh phí như vậy dẫn đến hiệu quả chăm sóc sức khỏe còn
thấp; đó là tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn cao, tỷ lệ người mắc các bệnh truyền
nhiễm như sốt rét, HIV/AIDS, sốt xuất huyết, viêm phổi và những bệnh liên quan
đến nước sinh hoạt gia tăng. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về tình trạng sức khỏe giữa
các vùng miền và các nhóm dân cư cũng là một vấn đề đáng báo động, mà theo đó
nhóm người nghèo dễ bị tổn thương nhất. Theo Ngân hàng thế giới, chỉ một lần đi
khám ở bệnh viện trung ương vào loại tốt có thể phải chi một khoản tiền bằng nửa
số chi tiêu cho các khoản chi phí lương thực mỗi năm của một cá nhân trong nhóm
nghèo nhất. Điều đó đe dọa sức khỏe của những người nghèo, do chi phí cho việc
chăm sóc sức khỏe vượt quá khả năng tài chính của họ.
Các chính sách y tế không hợp lý cũng đã dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu
cực trong ngành y tế. Bệnh nhân đi khám, chữa bệnh ở các cơ sở công lập hiện nay,
ngoài mức phí chính thức, thường phải chi nhiều khoản khác một cách không chính
thức, thiếu minh bạch. Mức lương thấp cùng với các khoản phụ cấp không thích
đáng đã khiến cho một số cán bộ, nhân viên ngành y tế tắc trách trong công việc, và
có thái độ vòi vĩnh, hạch sách bệnh nhân, điều bấy lâu nay gây nhức nhối cho toàn
xã hội; việc thu một phần viện phí đã tạo ra nhiều phức tạp trong mối quan hệ giữa
thầy thuốc và bệnh nhân, người giàu- người nghèo và khó khăn trong công tác quản
lý các cơ sở y tế. Đặc biệt, tình trạng quá tải hiện nay ở nhiều bệnh viện tuyến tỉnh
và trung ương đã tạo nên nhiều bất cập về nhân lực và tài chính ở các bệnh viện này
35
một cách trầm trọng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khám, chữa bệnh và
chăm sóc bệnh nhân. Ngoài ra, việc ngân sách nhà nước cấp theo giường bệnh trở
nên thiếu công bằng giữa bệnh viện quá tải và bệnh viện có công suất sử dụng
giường bệnh thấp. Bệnh viện càng bị quá tải thì ngân sách cấp cho mỗi giường bệnh
càng thấp. Thực tế này đã đẩy các bệnh viện có công suất sử dụng giường bệnh cao
vào tình trạng khó khăn trầm trọng giữa ngân sách được cấp và chi phí thực tế cho
giường bệnh, yếu tố dẫn đến chất lượng dịch vụ kém của các bệnh viện.
Tình hình trên cho thấy việc cho phép tư nhân tham gia vào lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe là cần thiết và cấp bách. Tất nhiên, chúng ta không thể để khu vực tư
nhân toàn quyền trong lĩnh vực này, nếu như vậy thì sẽ dẫn đến tình trạng những
người giàu được chăm sóc sức khỏe đầy đủ, còn những người nghèo thì phải chịu
đựng bệnh tật, ốm đau. Chính vì vậy, cùng với việc chuyển giao một phần việc
cung ứng dịch vụ trong ngành y tế cho khu vực tư nhân, Nhà nước phải bảo đảm
cho mọi công dân của mình được hưởng một mức độ chăm sóc y tế tối thiểu như
nhau (mức tối thiểu này được nâng dần theo đà phát triển của đất nước).
III. NHỮNG YÊU CẦU VỀ ĐỔI MỚI CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG
Liên quan đến những bất cập trên đây có thể kể đến một số nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
Một là, Nhà nước đã quá “bao sân” trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công dẫn
đến:
+ Tình trạng độc quyền trong lĩnh vực này, thủ tiêu cạnh tranh trong nội bộ
khu vực công cũng như giữa khu vực công và khu vực tư. Trong kinh tế học nói
chung, về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế, trạng thái độc quyền làm triệt tiêu
động lực đổi mới của tự thân tổ chức độc quyền. Họ không thực sự chú ý đến nhu
cầu đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm cung ứng vì bản thân họ không chịu bất
kỳ một sức ép cạnh tranh nào. Dịch vụ công không phải là một ngoại lệ. Việc nhà
nước đảm nhiệm cung ứng phần lớn dịch vụ công, mặc nhiên quyết định mọi khía
cạnh liên quan đến dịch vụ công, cơ chế thị trường không có tiếng nói tất yếu dẫn
đến chất lượng hàng hoá và dịch vụ công cung ứng ra không được quan tâm đúng
mức.
+ Gánh nặng chi tiêu cho dịch vụ công chắc chắn vượt quá giới hạn ngân
sách hạn hẹp của nhà nước. Không chỉ vậy, nguồn lực cán bộ (về số lượng cũng như
chất lượng, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, phẩm chất đạo đức) cũng như
36
kỹ thuật của khu vực nhà nước cũng không đủ để đáp ứng hết các nhu cầu dịch vụ
công trong xã hội, ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng của dịch vụ công cung
ứng.
Hai là, khả năng cung ứng dịch vụ công thích hợp cho từng cộng đồng địa
phương của chính phủ là hạn chế. Bởi lẽ, chính phủ trung ương thường không hiểu
rõ nhu cầu, thị hiếu của cộng đồng dân cư địa phương bằng các tổ chức cá nhân hay
chính quyền địa phương, do đó hạn chế đến tính thích ứng và hiệu quả cung ứng
dịch vụ công.
Ba là, cho đến nay, dịch vụ công vẫn được xem là dịch vụ thiết yếu một
chiều do Nhà nước cung ứng và quản lý, còn người dân thì có trách nhiệm tiếp nhận
và sử dụng khi cần thiết. Vì vậy, tiếng nói của cộng đồng, phản hồi của khách hàng
về dịch vụ công chưa thật sự được chú trọng, chưa được nhìn nhận đúng mức trong
hoàn thiện cung ứng dịch vụ công. Đây cũng là một lý do góp phần vào những tồn
tại nêu trên trong lĩnh vực dịch vụ công.
Bốn là, một nguyên nhân quan trọng và điển hình của khu vực công là bộ
máy nhà nước cồng kềnh, thủ tục hành chính phiền hà, tệ quan liêu, cửa quyền làm
cho các công ty nhà nước cung ứng dịch vụ công thiếu kịp thời, tốn kém nguồn lực
và gây khó khăn cho dân chúng trong tiêu dùng các dịch vụ công.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thời đại của những sự thay đổi nhanh
chóng, trong một thị trường toàn cầu có sức ép cạnh tranh rất lớn đối với nền kinh tế
và các chủ thể kinh tế, trong một xã hội của thông tin, một nền kinh tế dựa trên cơ
sở tri thức. Trong cơ chế thị trường đó, khách hàng đã trở nên quen với chất lượng
cao và sự lựa chọn rộng rãi các sản phẩm hàng hóa dịch vụ. Vì vậy, cải cách việc
cung ứng các dịch vụ công để giải quyết những bất cập trên đây là điều tất yếu, và
cần tập trung vào các vấn đề sau đây:
Một là, mở rộng áp lực cạnh tranh hay vận dụng thích đáng cơ chế thị trường
vào lĩnh vực dịch vụ công. Cạnh tranh làm nâng cao hiệu quả và lành mạnh các tổ
chức công thông qua những giải pháp giảm sự can thiệp của nhà nước như tư nhân
hoá, giải điều tiết và đấu thầu hợp đồng. Chính lực lượng thị trường sẽ là các công
cụ tự nhiên điều tiết cung cầu, làm cân bằng thị trường. Vì lẽ đó, cạnh tranh được
xem là một trong những động lực quan trọng trong cung ứng dịch vụ công, khuyến
khích sự đổi mới trong cung ứng dịch vụ công. Cạnh tranh là một hình thức đào thải
tự nhiên. Đặc biệt, trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ nói chung và dịch vụ công nói
riêng nó tạo điều kiện cho "sự tồn tại cái có ích".
Đã đến lúc, Nhà nước cần nhận thức lại vai trò của mình. Các cấp chính
quyền cần thay đổi lại nhận thức về vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ
37