1. Trang chủ >
  2. Kinh Tế - Quản Lý >
  3. Quản lý nhà nước >

III. NHỮNG YÊU CẦU VỀ ĐỔI MỚI CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 97 trang )


kỹ thuật của khu vực nhà nước cũng không đủ để đáp ứng hết các nhu cầu dịch vụ

công trong xã hội, ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng của dịch vụ công cung

ứng.

Hai là, khả năng cung ứng dịch vụ công thích hợp cho từng cộng đồng địa

phương của chính phủ là hạn chế. Bởi lẽ, chính phủ trung ương thường không hiểu

rõ nhu cầu, thị hiếu của cộng đồng dân cư địa phương bằng các tổ chức cá nhân hay

chính quyền địa phương, do đó hạn chế đến tính thích ứng và hiệu quả cung ứng

dịch vụ công.

Ba là, cho đến nay, dịch vụ công vẫn được xem là dịch vụ thiết yếu một

chiều do Nhà nước cung ứng và quản lý, còn người dân thì có trách nhiệm tiếp nhận

và sử dụng khi cần thiết. Vì vậy, tiếng nói của cộng đồng, phản hồi của khách hàng

về dịch vụ công chưa thật sự được chú trọng, chưa được nhìn nhận đúng mức trong

hoàn thiện cung ứng dịch vụ công. Đây cũng là một lý do góp phần vào những tồn

tại nêu trên trong lĩnh vực dịch vụ công.

Bốn là, một nguyên nhân quan trọng và điển hình của khu vực công là bộ

máy nhà nước cồng kềnh, thủ tục hành chính phiền hà, tệ quan liêu, cửa quyền làm

cho các công ty nhà nước cung ứng dịch vụ công thiếu kịp thời, tốn kém nguồn lực

và gây khó khăn cho dân chúng trong tiêu dùng các dịch vụ công.

Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thời đại của những sự thay đổi nhanh

chóng, trong một thị trường toàn cầu có sức ép cạnh tranh rất lớn đối với nền kinh tế

và các chủ thể kinh tế, trong một xã hội của thông tin, một nền kinh tế dựa trên cơ

sở tri thức. Trong cơ chế thị trường đó, khách hàng đã trở nên quen với chất lượng

cao và sự lựa chọn rộng rãi các sản phẩm hàng hóa dịch vụ. Vì vậy, cải cách việc

cung ứng các dịch vụ công để giải quyết những bất cập trên đây là điều tất yếu, và

cần tập trung vào các vấn đề sau đây:

Một là, mở rộng áp lực cạnh tranh hay vận dụng thích đáng cơ chế thị trường

vào lĩnh vực dịch vụ công. Cạnh tranh làm nâng cao hiệu quả và lành mạnh các tổ

chức công thông qua những giải pháp giảm sự can thiệp của nhà nước như tư nhân

hoá, giải điều tiết và đấu thầu hợp đồng. Chính lực lượng thị trường sẽ là các công

cụ tự nhiên điều tiết cung cầu, làm cân bằng thị trường. Vì lẽ đó, cạnh tranh được

xem là một trong những động lực quan trọng trong cung ứng dịch vụ công, khuyến

khích sự đổi mới trong cung ứng dịch vụ công. Cạnh tranh là một hình thức đào thải

tự nhiên. Đặc biệt, trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ nói chung và dịch vụ công nói

riêng nó tạo điều kiện cho "sự tồn tại cái có ích".

Đã đến lúc, Nhà nước cần nhận thức lại vai trò của mình. Các cấp chính

quyền cần thay đổi lại nhận thức về vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ



37



công, mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý, không ôm đồm những việc mà các

chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác có thể thực hiện được trong tầm kiểm soát

của Nhà nước. Tinh thần chung là những dịch vụ công nào khu vực tư nhân có thể

đảm nhận được thì Nhà nước chỉ đóng vai trò là người quản lý và giám sát chất

lượng, còn đối với các dịch vụ công không thể và không nên giao cho khu vực tư

nhân, thì nhà nước sẽ là người cung ứng trực tiếp. Nhà nước chỉ nên đảm nhận các

dịch vụ công thuần tuý mang tính quản lý nhà nước mà không ai làm thay được.

Tính cạnh tranh trong các dịch vụ này giới hạn trong cạnh tranh nội bộ của các cơ

quan nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước cũng được khuyến khích cạnh tranh với

nhau và được phép tham gia đấu thầu nội bộ như mọi đối tác trong nền kinh tế.

Ngược lại, đối với các dịch vụ công không thuần tuý, Nhà nước nên mở rộng đối

tượng cung ứng cho thị trường. Chính phủ dựa vào cơ chế thị trường để hoàn thiện

cung ứng dịch vụ công, tạo ra môi trường cạnh tranh thông qua các biện pháp mở

rộng thị trường hay hợp đồng đấu thầu. Thực chất đây là hoạt động “xã hội hoá”

việc cung ứng dịch vụ công. Cách tiếp cận này cho phép nhà nước giảm gánh nặng

về tài chính và giảm sự cồng kềnh trong tổ chức thực hiện cung ứng các dịch vụ

công. Mở rộng thị trường ở đây được hiểu là đa dạng hoá nhà cung ứng dịch vụ

công, tạo điều kiện cho nhiều đối tượng tham gia vào cung cấp dịch vụ xã hội như

giáo dục và y tế. Tất nhiên là, những nhà cung cấp này phải tuân thủ các tiêu chuẩn

của nhà nước.

Bên cạnh đó, hình thức hợp đồng đấu thầu cạnh tranh cũng làm tăng trách

nhiệm và hiệu quả cung ứng dịch vụ công. Thứ nhất, hai bên được phân định rõ ràng

trách nhiệm của mình trong việc cung cấp dịch vụ gì và tiêu chuẩn chất lượng dịch

vụ đó ra sao. Theo hợp đồng, bên chủ thầu thiết lập hệ thống tiêu chuẩn - chỉ số

kiểm tra, đánh giá hoạt động và bên thầu phải tuân thủ, chịu sự giám sát. Đây là cơ

sở quan trọng để đánh giá kết quả của hợp đồng và lý do để điều chỉnh hợp đồng

cho thích hợp với điều kiện. Thứ hai, hợp đồng thầu ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả

và tiết kiệm chi phí. Các nhà thầu có quyền tự chủ cao hơn trong hoạt động, hoàn

thiện và đơn giản hoá bộ máy quản lý. Từ đó, khả năng nâng cao năng suất lao động

được tăng lên. Quyền tự chủ cao cho phép các nhà thầu linh hoạt trong việc cung

cấp dịch vụ công cho khách hàng.

Một giải pháp khác trong việc mở rộng cạnh tranh trong khu vực công là sự

phân quyền và uỷ quyền cho khu vực tư cung ứng hàng hoá và dịch vụ công. Việc

uỷ quyền này thường xảy ra khi các công ty nhà nước không đủ khả năng (kỹ thuật

và nhân sự) hoặc cung cấp các dịch vụ đó không hiệu quả. Các công ty tư nhân được

kỳ vọng sẽ thực hiện các nhiệm vụ đó hiệu quả và năng suất hơn.



38



Việc uỷ quyền cung ứng dịch vụ công còn mở rộng cho nhiều nhóm lợi ích

trong xã hội. Các nhóm lợi ích này có thể kể đến các hiệp hội nghề nghiệp, các

nhóm cộng đồng, các hợp tác xã, các hội từ thiện, công đoàn, tổ chức của phụ nữ

hay thanh niên, các tổ chức phi chính phủ.

Đặc biệt, liên quan đến tính thích ứng và hiệu quả của một số loại dịch vụ

công, trong nhiều trường hợp, cơ quan cung ứng dịch vụ công của nhà nước ở cấp

trung ương không thể hiểu rõ được nhu cầu của người dân địa phương. Trong điều

kiện đó, chính quyền địa phương (chính quyền tỉnh, thành phố) hay các tổ chức địa

phương sẽ cung cấp các dịch vụ đặc thù cho người tiêu dùng hiệu quả và thích ứng

hơn. Nói cách khác, phân quyền và trách nhiệm phù hợp trong cung ứng dịch vụ

công đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và thích ứng của dịch vụ

công.

Cho phép khu vực tư nhân tham gia cung ứng dịch vụ công cũng là một trong

các giải pháp vận dụng cơ chế thị trường vào khu vực công, và điều đó đã được

chứng minh là rất thích hợp cho việc nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công. Ở

đây, Nhà nước và tư nhân trở thành đối tác hợp tác thực sự trong kinh doanh. Việc

chuyển giao cho khu vực tư nhân cung ứng dịch vụ công bao gồm nhiều góc độ, từ

việc chuyển quyền sở hữu tư liệu sản xuất của doanh nghiệp nhà nước sang tay tư

nhân cho tới giải điều tiết. Giải điều tiết có nghĩa là tháo gỡ hay nới lỏng sự điều tiết

ở đây là các quy định (pháp luật) cho phép tư nhân hay các tổ chức phi chính phủ

tham gia cạnh tranh cung cấp dịch vụ công cho công chúng với các doanh nghiệp

nhà nước. Bằng cách này, các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức phi chính phủ

giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng thâm hụt ngân sách, đồng thời có thể tham gia

tích cực vào đáp ứng cho nhân dân một cách tốt hơn và hiệu quả hơn (Hughes

1998).

Hộp 9: Lợi ích của việc đổi mới cung ứng dịch vụ công

- Tạo môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tư nhân nhận cung ứng dịch vụ

công. Các tổ chức được nhận thầu cung ứng độc quyền một loại dịch vụ công nào

đó luôn có nguy cơ bị xóa bỏ hợp đồng nếu làm ăn kém hiệu quả; Tạo ra hiệu quả

cung ứng dịch vụ công cao hơn;

- Nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công thông qua cải cách hướng tới chất

lượng và hiệu quả phục vụ của các cơ quan công quyền;

- Tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt động cung ứng dịch vụ

công, phát huy được khả năng và năng lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy tính

chủ động sáng tạo và tích cực của người dân;

- Động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người dân vào hoạt động cung ứng

dịch vụ công của nhà nước;



39



- Là giải pháp cần thiết để góp phần tạo ra sự công bằng trong tiêu dùng các dịch

vụ công.



Tuy nhiên, cần phải lưu ý là, để thực hiện tốt việc chuyển giao dịch vụ công

cho các tổ chức, cá nhân, thì bản thân các cơ quan nhà nước phải tổ chức tốt việc

cung ứng các dịch vụ công do mình đảm nhiệm, bảo đảm tiện ích và hiệu quả cho

nhân dân. Nếu Nhà nước không làm tốt được việc này thì không thể thực hiện tốt

việc chuyển giao và quản lý dịch vụ công cho tổ chức và cá nhân. Bởi lẽ, mô hình

cung ứng dịch vụ công của các cơ quan nhà nước chính là cơ sở, là thước đo để

đánh giá chất lượng, hiệu quả các dịch vụ công sau khi đã chuyển giao cho các tổ

chức, cá nhân. Một yêu cầu nữa là, Nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp quy

về quy trình chuyển giao cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân.

Hai là, tăng cường tiếng nói và vai trò đối tác của công dân, củng cố cơ chế

lên tiếng. Dịch vụ công không phải là hoạt động thuộc chức năng quản lý của Nhà

nước mà thuộc chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước. Do đó, ở đây, Nhà nước

đóng vai trò là người phục vụ còn cộng đồng là người được phục vụ. Xét trên góc

độ dịch vụ, thì người dân là khách hàng. Chính vì vậy, mọi công dân đều có quyền

bày tỏ ý kiến của mình về chất lượng các hàng hóa và dịch vụ công được cung cấp.

Chính áp lực từ các ý kiến phản hồi bên ngoài sẽ cho phép kiểm soát và đổi mới

việc cung ứng dịch vụ công. "Cơ chế lên tiếng" này đặc biệt có ảnh hưởng trong

việc hoàn thiện khu vực công cốt lõi và mở rộng.

Để thực hiện được cơ chế này, Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp như

khuyến khích sự tham gia của công dân vào hoạch định chính sách công, điều tra

khách hàng, tham kiến người tiêu dùng… Cụ thể, Nhà nước cần phát huy dân chủ

trong quy trình hoạch định chính sách, cho phép, khuyến khích và tạo điều kiện để

công chúng tham gia đóng góp ý kiến vào các dự án nhà nước liên quan tới lợi ích

của cộng đồng, giám sát hoạt động của các tổ chức nhà nước trong cung ứng dịch cụ

công, đồng thời đề xuất kiến nghị, thắc mắc tới các cơ quan chức năng về các vấn đề

nảy sinh liên quan đến dịch vụ công trong xã hội. Đến lượt mình, các cơ quan công

quyền có trách nhiệm lắng nghe tiếng nói của công dân, tiếp thu, xử lý và phản hồi

kịp thời, đầy đủ các kiến nghị đó đồng thời điều chỉnh hoạt động cung ứng dịch vụ

công của mình. Cơ chế phản hồi nâng cao tính minh bạch, công khai và ý thức hoàn

thiện kết quả hoạt động của từng cá nhân và tổ chức. Thông qua cơ chế này, người

tiêu dùng có cơ hội đánh giá và đóng góp ý kiến về thực trạng cung cấp dịch vụ

công hiện tại. Ngược lại, từ những kết quả phản hồi đó, nhà cung cấp rút kinh

nghiệm và hoàn thiện mình hơn.

Hiện nay, các nước phát triển đã và đang áp dụng nhiều cách thức khác nhau

để hoàn thiện hoạt động cung ứng dịch vụ công, cả từ phía các tổ chức nhà nước



40



cũng như các tổ chức tư nhân. Một trong những cách thức được các nhà quản lý khu

vực nhà nước quan tâm là cách tiếp cận định hướng khách hàng, đã được các tổ

chức tư nhân áp dụng thành công. Cách tiếp cận này, về thực chất là tập trung vào

nhu cầu, đòi hỏi của người sử dụng hơn là khả năng của nhà cung cấp có thể cung

ứng những gì. Trong điều kiện đó, cơ chế lên tiếng hay tăng cường tiếng nói và đối

tác của công dân càng cần được chú trọng. Bởi lẽ, lợi ích của kênh thông tin hai

chiều là cho phép các nhà cung cấp nắm rõ cái gì dân chúng cần và thực tế các dịch

vụ đó cung cấp có hiệu quả hay không.

Ba là, công khai hoá các tiêu chuẩn cung ứng dịch vụ công. Điều này cho phép

tạo ra môi trường làm việc minh bạch, dân chủ và công bằng trong toàn xã hội. Các

tiêu chí được công khai gồm thủ tục hành chính, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và

phí dịch vụ công. Việc công khai hoá, một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho người

tiêu dùng trong việc tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch, hiểu được mình cần

phải làm gì và được hưởng những gì, tránh được những phiền hà, sách nhiễu, thái độ

quan liêu, cửa quyền của cán bộ đơn vị cung cấp dịch vụ công đối với khách hàng.

Mặt khác, công khai các tiêu chí có vai trò như đối chứng pháp quy trong việc cung

cấp dịch vụ công cụ thể, đảm bảo việc cung cấp dịch vụ công được thực hiện đúng

theo cam kết và do đó, người tiêu dùng có căn cứ tin tưởng vào dịch vụ công họ sử

dụng.

Bốn là, kiện toàn bộ máy quản lý khu vực công. Không thể cung ứng dịch vụ

công tốt với một bộ máy quản lý khu vực công hoạt động kém hiệu quả. Việc đổi

mới này được thực hiện theo hướng:

- Làm tinh gọn bộ máy nhà nước, tách cơ quan công quyền với các tổ chức sự

nghiệp, tăng cường năng lực cho cán bộ, công chức nhằm nâng cao hiệu quả cung

ứng dịch vụ công. Bên cạnh những điều kiện cần là cạnh tranh, minh bạch thì điều

kiện đủ để có thể hoàn thiện chất lượng dịch vụ công là đội ngũ công chức có trình

độ chuyên môn cao, trung thành và tâm huyết với sự nghiệp. Bởi lẽ, một trình độ

chuyên môn cao sẽ bảo đảm cho các hoạt động trong bộ máy vận hành khoa học,

chuyên nghiệp và có hệ thống. Một sự trung thành, tâm huyết và đạo đức nghề

nghiệp sẽ cho phép người công chức theo đuổi mục tiêu của tổ chức, sẵn sàng chịu

trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân và đảm bảo sự chính xác, công minh trong

thi hành công vụ. Với một đội ngũ công chức phẩm chất đạo đức tốt, năng lực

chuyên môn cao, bộ máy nhà nước có thể tinh giản gọn nhẹ đến mức tối đa mà vẫn

đảm bảo được trách nhiệm cung ứng dịch vụ công đầy đủ và hiệu quả cho xã hội. Vì

vậy, tổ chức bộ máy phải được sắp xếp lại một cách khoa học, hợp lý theo hướng đa

ngành, đa lĩnh vực, và chuyên môn hóa, tiêu chuẩn hóa công thức. Gắn với nó là



41



công tác đào tạo và bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng cao năng lực, kỹ năng tác

nghiệp cho đội ngũ cán bộ công chức.

- Cải cách thủ tục hành chính theo nguyên tắc công khai, đơn giản, và thực

hiện cơ chế một cửa, giảm bớt thời gian, công sức của người dân, giúp công chức

giải quyết công việc thuận tiện dễ dàng; giảm bớt sự cồng kềnh của bộ máy, hạn chế

tình trạng tham nhũng, hối lộ, cửa quyền khi giải quyết công việc của dân.

- Khoán chi hành chính và quỹ lương cho các cơ quan hành chính nhà nước

để tạo ra sự chủ động cho các cơ quan này trong bố trí công việc và nhân sự. Cho

phép trả cao hơn với những người có năng suất lao động cao. Đồng thời, cải cách

bảng tiền lương công chức, đảm bảo trả lương tương xứng với đóng góp của mỗi

người, xây dựng chế độ nâng lương sao cho khuyến khích những người làm việc có

hiệu quả, động viên, nâng cao trình độ, năng lực trong công việc.

- Mở rộng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO trong cung ứng các dịch

vụ công nói chung cũng như dịch vụ hành chính công nói riêng, tạo ra một hệ thống

tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ công chức, đánh giá chất lượng của hoạt động cung

ứng dịch vụ công cho các tổ chức và công dân.

- Nâng cao trách nhiệm và đạo đức của người công chức thông qua một loạt

các biện pháp như xây dựng sự cam kết trách nhiệm của công chức, lập hộp thư góp

ý, đường dây nóng để nhận thông tin phản hồi từ dân, đánh giá công chức thông qua

ý kiến nhân dân, có cơ chế khen thưởng và xử phạt thỏa đáng đối với công chức.

- Từng bước hiện đại hóa các phương tiện cung cấp dịch vụ, đặc biệt sử dụng

rộng rãi công nghệ thông tin trong cung ứng dịch vụ công, giảm đáng kể thời gian

và công sức.

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng yêu cầu đổi mới cung ứng dịch

vụ công là hết sức bức thiết. Để đạt được thành công trong công cuộc đổi mới này,

Nhà nước sẽ phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp liên quan đến tất cả các kích

chiều cung ứng dịch vụ công, từ những cải cách nội tại trong chính các cơ quan nhà

nước chịu trách nhiệm cung ứng dịch vụ, đến những giải pháp mang tính vĩ mô như

cải cách cơ chế, phương thức vận hành của bộ máy hành chính nhà nước, hoặc thay

đổi cả vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ bằng việc chuyển giao ở một

mức độ nhất định trách nhiệm cung ứng cho khu vực phi nhà nước thông qua quá

trình xã hội hóa cung ứng dịch vụ công. Ở Việt Nam, vấn đề xã hội hóa cung ứng

dịch vụ công đã được thể chế hóa bằng chủ trương, chính sách của Nhà nước. Với

chủ trương này, ý nghĩa việc xã hội hóa không đơn thuần là sự chuyển giao các hoạt

động cung ứng dịch vụ công cho các tổ chức ngoài quốc doanh, mà còn có ý nghĩa

động viên và tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động và tích cực của người dân vào



42



phát triển các dịch vụ công, đa dạng hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ trên cơ sở

phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người dân.



PHẦN III

QUÁ TRÌNH XÃ HỘI HOÁ CUNG ỨNG

DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM

Những phân tích ở các phần trên đã cho thấy yêu cầu đổi mới cung ứng dịch

vụ công đang được đặt ra hết sức cấp bách. Ở nước ta, cùng với quá trình phát triển

nền kinh tế thị trường, thì việc Nhà nước bao cấp đối với hầu hết các dịch vụ công

trong xã hội đã vấp phải những mâu thuẫn ngày càng nan giải. Cụ thể là:

- Mâu thuẫn giữa khoản kinh phí bao cấp quá lớn về dịch vụ công với ngân

sách nhà nước còn rất hạn hẹp. Do nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển thấp,

thu nhập bình quân đầu người năm 2005 mới đạt gần 640 USD, thu ngân sách hơn

210 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 25% GDP. Với mức thu như vậy, việc Nhà nước

bao cấp hầu hết các hoạt động cung ứng dịch vụ công là gánh nặng quá lớn đối với

ngân sách nhà nước.

- Mâu thuẫn giữa khối lượng dịch vụ công được Nhà nước cung ứng và năng

lực thực thi của bộ máy nhà nước. Một mặt, khối lượng dịch vụ công do Nhà nước

trực tiếp cung ứng là quá lớn, bao trùm nhiều lĩnh vực; mặt khác, bộ máy nhà nước

nói chung và hệ thống các tổ chức cung cấp dịch vụ công nói riêng còn nhiều hạn

chế về năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện việc cung ứng, nên nhìn

chung chất lượng dịch vụ công thấp, không đáp ứng tốt nhu cầu của người sử dụng.

Sự độc quyền trong việc cung ứng các dịch vụ công làm tăng tính quan liêu, cửa

quyền của bộ máy nhà nước.

- Mâu thuẫn giữa dân số tăng nhanh với khả năng cung ứng dịch vụ công có

hạn của Nhà nước. Trong những năm qua, dân số nước ta tăng với tốc độ đáng kể,

trung bình đạt 2,1% trong giai đoạn 1980-1995 và 1,46% trong giai đoạn 19962005. Trong điều kiện nguồn thu của ngân sách vốn đã hạn hẹp, nhu cầu chi cho

phát triển kinh tế ngày càng lớn, thì tốc độ tăng dân số nói trên làm lượng chi cho

dịch vụ công tính theo đầu người giảm sút.

Những mâu thuẫn trên cộng với những tiến bộ khoa học và công nghệ trong

lĩnh vực dịch vụ, việc tăng đáng kể nhu cầu sử dụng dịch vụ công ở một bộ phân

dân cư có thu nhập cao trong xã hội, tính chất cạnh tranh của cơ chế thị trường, xu

hướng phi tập trung hoá các hoạt động của Nhà nước,… đã khiến cho Nhà nước

không thể tiếp tục bao cấp hoàn toàn đối với các dịch vụ công được nữa. Nhà nước



43



đã thực hiện đổi mới cơ chế cung ứng dịch vụ công theo hướng khuyến khích mọi

thành phần kinh tế, mọi chủ thể trong xã hội cùng tham gia vào hoạt động cung ứng

dịch vụ công (hay còn gọi là “xã hội hoá” cung ứng dịch vụ công).

I. QUAN NIỆM VỀ “XÃ HỘI HÓA” CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG

I.1. Quan niệm về “xã hội hoá”

Trong những năm qua ở nước ta, có một thực tế là thuật ngữ “xã hội hoá”

được đề cập trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước cũng như trên

các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng cho đến nay chưa có một khái niệm

(định nghĩa) thống nhất về “xã hội hoá”, hoặc chí ít là chưa có sự giải nghĩa tương

đối đầy đủ về nội hàm của thuật ngữ này. Thực tế, điều này đã trở thành một thách

thức lớn trong việc quán triệt và thực hiện chủ trương xã hội hoá cung ứng dịch vụ

công ở nước ta do có những cách hiểu khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau về xã

hội hoá. Cách hiểu thông thường nhất là dùng nghĩa của từ “xã hội” cộng với nghĩa

của hình vị “hoá”, như các cách giải thích dưới đây cho “xã hội hoá” là “chung”: (1)

hoạt động sản xuất- kinh doanh là hoạt động không thể tự một người hay một gia

đình làm được, mà là một hoạt động có tổ chức và có tính tập thể cao; (2) hoạt động

do nhà nước quyết định, điều động và kiểm soát- huy động mọi người làm chung;

(3) hoạt động chung có tính tự nguyện: như là tập thể người bỏ vốn vào công ty,

quyền tuỳ thuộc số tiền bỏ vốn ra; hay là các hợp tác xã mà người lao động làm

chung, quyết định chung mỗi người một phiếu giống nhau; hay (4) xã hội hoá là mỗi

người tự đóng góp, tự lo, nhà nước có xu hướng giảm đi trách nhiệm của mình...

Nhìn chung, nhiều cách hiểu về “xã hội hoá” còn ít nhiều phiến diện, chưa làm rõ

được bản chất của “xã hội hoá”. Để giảm thiểu thách thức nêu trên đây, phần này cố

gắng làm rõ nội hàm của thuật ngữ “xã hội hoá”, từ đó suy ra nội hàm của “xã hội

hoá” cung ứng dịch vụ công (xem xét khái niệm của “xã hội hoá” trong bối cảnh

cung ứng dịch vụ công).

Đi tìm trong các từ điển tiếng Việt, không tìm thấy cuốn từ điển nào giải

nghĩa đầy đủ cho thuật ngữ “xã hội hoá” trên tư cách là một thuật ngữ độc lập. Tuy

nhiên, chúng ta có thể tìm thấy những sự giải nghĩa thuật ngữ “xã hội hoá” khi nó

được ghép với các thuật ngữ khác như: “xã hội hoá sản xuất”; “xã hội hoá cá nhân”;

“xã hội hoá hình thức”; “xã hội hoá thực tế”; “xã hội hoá thặng dư”11... Qua nghiên

cứu các thuật ngữ trên có thể suy ra một cách khái quát rằng: “Xã hội hoá” một hoạt

động nào đó chính là sự gia tăng tính chất “xã hội” của hoạt động ấy thông qua sự

tham gia của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội dựa trên những điều kiện và

trong khuôn khổ cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế cụ thể như thế nào là phụ

thuộc vào bối cảnh của xã hội hoá. Những điều kiện và cơ chế đóng vai trò then chốt

11



Xem Từ điển Bách khoa Việt Nam, có tại: http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn.



44



đối với sự thành công của xã hội hoá. Chúng quy định hình thức, phương thức

“tham gia” của các chủ thể khác nhau trong xã hội vào hoạt động được xã hội hoá.

Như vậy, điều kiện và cơ chế gắn với bối cảnh xã hội hoá sẽ quyết định ý nghĩa của

“xã hội hoá” trong bối cảnh ấy.

I.2. “Xã hội hoá” cung ứng dịch vụ công

Điều được xem xét ở đây là “cung ứng dịch vụ công”. Từ “cung ứng” hiểu

đầy đủ có nghĩa là cả sản xuất và phân phối. Muốn thật rõ nghĩa, có thể viết: cung

ứng và phân phối dịch vụ công (hoặc cung ứng và hưởng thụ dịch vụ công). Cung

ứng dịch vụ công tức là hoạt động cung ứng các dịch vụ vốn được thực hiện bởi

Nhà nước. Như vậy, theo nghĩa chung nhất, “xã hội hoá” ở đây có nghĩa là mở rộng

sự tham gia của các chủ thể kinh tế ngoài nhà nước vào việc cung ứng dịch vụ công.

Trước đây hoạt động cung ứng dịch vụ công chỉ do một mình Nhà nước đảm nhiệm

thì nay nó được mở rộng cho sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế khác dựa trên

điều kiện và cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế thực hiện xã hội hoá như thế nào

là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng quốc gia. Với cách tiếp cận như vậy, có

thể hiểu khái niệm “xã hội hoá” áp dụng trong bối cảnh cung ứng dịch vụ công,

được đề cập nhiều trong các văn bản của Đảng và Nhà nước và trên các phương tiện

thông tin đại chúng trong thời gian qua, là:

- Quá trình vận động và tổ chức để nhân dân và toàn xã hội tham gia (về vốn,

tài sản, sức lao động, trí tuệ...), hình thành cộng đồng trách nhiệm của các tổ chức

Đảng, Nhà nước, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân.

Mỗi bên tham gia có thể có mục đích riêng của mình, tuy nhiên tất cả các bên đều

hướng tới một mục đích chung quan trọng nhất là nâng cao hiệu quả của hoạt động

cung ứng dịch vụ công, đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ dịch vụ của nhân dân.

Quá trình vận động nhân dân tham gia cũng có nghĩa là tạo ra các phong trào lành

mạnh sâu rộng trong xã hội như: học tập, tập luyện thể dục thể thao, rèn luyện thân

thể, vệ sinh phòng dịch, xây dựng đời sống văn hoá mới...

- Quá trình đa dạng hoá các hình thức hoạt động, mở ra cơ hội để mọi người

chủ động và bình đẳng tham gia. Dịch vụ công không còn chỉ được cung ứng bởi

Nhà nước nữa, mà được mở rộng cho sự tham gia của các tổ chức ngoài nhà nước

với nhiều hình thức đa dạng, phong phú (có thể hoạt động độc lập, liên kết với Nhà

nước hoặc quan hệ bạn hàng với Nhà nước) và bình đẳng.

- Quá trình đa dạng hoá các nguồn đầu tư để thu hút, khai thác mọi tiềm năng

trong xã hội. Gắn với việc đa dạng hoá các hình thức hoạt động cung ứng dịch vụ

công là quá trình đa dạng hoá các nguồn đầu tư trong xã hội. Cùng với Nhà nước,

các tổ chức ngoài nhà nước có thể bỏ vốn đầu tư vào hoạt động cung ứng dịch vụ

công.



45



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

×