Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.42 KB, 99 trang )
tăng 10 - 20%/năm, đạt 5,5 đến 6 triệu lượt người vào năm 2010, khách nội
địa tăng trung bình 15 - 20%/ năm và đạt 25 triệu lượt người vào năm 2010.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch tạo ra số việc làm đáng kể
và góp phần giảm nghèo đói. Các yếu tố cơ bản trong việc cải thiện nhanh
chóng hình ảnh ngành du lịch Việt Nam và tạo điều kiện di chuyển tự do cho
khách du lịch tới Việt Nam và đi lại trong nước, nỗ lực khuếch trương hình
ảnh du lịch Việt Nam ra nước ngoài, và các nỗ lực nhằm phát triển cơ sở hạ
tầng liên quan đến du lịch, cùng với những cố gắng trong việc khuyến khích
sự tham gia của khu vực tư nhân, giảm kiểm soát của chính phủ đối với hoạt
động du lịch và cải thiện nguồn nhân lực trong khu vực du lịch.
Sau thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chuyển đổi từ một quốc gia tương
đối cô lập với phần còn lại của thế giới (ngoại trừ quan hệ với khối các nước
Xã hội chủ nghĩa cũ) sang một cơ chế tương đối thoáng hơn. Chính phủ ủng
hộ việc mở rộng quan hệ và khuyến khích hợp tác kinh tế với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Hoạt động du lịch Việt Nam luôn tăng trưởng tương đối ổn
định với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20,5% trong gian đoạn từ năm
1991 đến nay. Tuy nhiên, ngành du lịch luôn rất dễ chịu tác động của những
cú sốc bên ngoài. Ngành du lịch Việt Nam đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai
cú sốc là cuộc khủng hoảng tài chính 1997 - 1998 và sự lan truyền của Hội
chứng suy giảm hô hấp cấp (SARS) năm 2003. Ngoài ra trong thời gian gần
đây, khu vực Châu Á còn chịu đe doạ nặng nề của dịch cúm gia cầm. Bằng
việc duy trì được tốc độ tăng trưởng của lượng khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam trong một thời gian dài, Việt Nam đã tăng thị phần khách quốc tế so với
cả khu vực từ 5% năm 1995 lên 7% năm 2003.
Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối diện với áp lực cạnh tranh khốc liệt
từ các quốc gia khác trong khu vực trong việc thu hút khách quốc tế. Mặc dù
tốc độ tăng trưởng hàng năm của lượng khách quốc tế đến Việt Nam luôn cao
hơn so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, nhưng Việt Nam vẫn
38
chưa thể nào bắt kịp về mặt số lượng khách tuyệt đối so với các đối thủ cạnh
tranh chính trong khu vực như Thái Lan và Malaixia và Singapore. Tính riêng
trong năm 2005, ba nước này đã thu hút được trên 70% số lượng khách du
lịch quốc tế đến ASEAN.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức được kết nạp làm thành viên
chính thức của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nền kinh tế Việt Nam nói
chung, cũng như ngành du lịch nói riêng bước vào sân chơi quốc tế với nhiều
thuận lợi và khó khăn mới. Trong xu thế chung, du lịch Việt Nam đã có nhiều
cố gắng chủ động hội nhập quốc tế.
Nếu được đầu tư và quản lý đúng cách, du lịch Việt Nam đang hứa hẹn
triển vọng của một thời kì phát triển thịnh vượng trong ngắn và trung hạn khi
đất nước tiếp tục khẳng định cam kết thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế
mũi nhọn này. Xu hướng của hoạt động du lịch trong thời gian vừa qua đã
cho thấy khách du lịch trở lại khu vực Đông Nam Á sau nạn dịch SARS và
cúm gia cầm có vẻ như đang muốn đi tìm những điểm đến mới. Những điểm
đến quen thuộc như Singapore, Malaixia, Thái Lan đã trở nên kém hấp dẫn
hơn với khách du lịch. Liệu Việt Nam có thể tận dụng cơ hội vàng này để
thúc đẩy sự phát triển ngành du lịch Việt Nam sánh ngang với các đối thủ
cạnh tranh trong khu vực hay không phụ thuộc vào khả năng ứng phó với
những thử thách từ áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, đặc biệt khi Việt Nam đã
là thành viên của WTO, cũng như những điểm yếu trong khả năng quản lý
bên trong đất nước đối với những điểm du lịch. Để đối phó với áp lực cạnh
tranh trong khu vực, điểm mấu chốt là phải đánh giá được khả năng cạnh
tranh của du lịch Việt Nam so với các quốc gia khác trong khu vực và chỉ ra
điểm mạnh, điểm yếu của du lịch Việt Nam để từ đó phát huy điểm mạnh và
hạn chế các điểm mạnh.
II. NHỮNG LỢI THẾ ĐỂ PHÁT TRIỂN NHANH DU LỊCH CỦA VIỆT NAM
39
Việt Nam có những lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý, kinh tế và chính trị.
Nằm ở trung tâm Đông Nam Á, lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa
vừa thông rộng với đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường
biển, đường sông, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Đây là tiền đề
rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch quốc tế.
Nước ta có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào, dân tộc
Việt Nam thông minh, cần cù, mến khách là những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho du lịch phát triển.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam phong phú và
đa dạng. Các đặc điểm đa dạng về cấu trúc địa hình biển và hải đảo, đồng
bằng, đồi núi, cao nguyên đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam sự đa dạng và phong
phú về cảnh quan và các hệ sinh thái có giá trị cho phát triển nhiều loại hình
du lịch, đặc biệt là các hệ sinh thái biển - đảo, hệ sinh thái sông, hồ, hệ sinh
thái rừng, hang động.
Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài đứng thứ 27 trong 156 quốc gia có
biển trên thế giới và là nước ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á. Đường bờ
biển Việt Nam trải dài trên 3.260 km qua 15 vĩ độ với 125 bãi biển có các
điều kiện thuận lợi cho họat động nghỉ dưỡng, tắm biển và vui chơi giải trí,
trong đó có nhiều bãi biển hấp dẫn như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thuận An,
Lăng Cô, Non Nước, Văn Phong - Đại Lãnh, Nha Trang, Phan Thiết, Long
Hải, Vũng Tàu, Hà Tiên... Đặc điểm hình thái địa hình vùng ven biển tạo ra
nhiều vịnh đẹp có tiềm năng phát triển du lịch lớn như Vịnh Hạ Long, vịnh
Văn Phong, Vịnh Cam Ranh... Trong đó vịnh Hạ Long đã được UNESCO
công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Trong tổng số hơn 2.700 đảo lớn nhỏ
ven bờ, nhiều đảo như Cái Bầu, Cát Bà, Tuần Châu, Cù Lao Chàm, Phú Quý,
Côn Đảo, Phú Quốc... với hệ sinh thái phong phú, cảnh quan đẹp, là nơi có
điều kiện hình thành các khu, điểm du lịch hấp dẫn.
40
Với khoảng 50.000 km2 địa hình karst, Việt Nam được xem là nước có
tiềm năng du lịch hang động, thác, ghềnh to lớn, trong đó có hơn 200 hang
động đã được phát hiện, điển hình là động Phong Nha với chiều dài gần 8 km,
được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
(Địa hình karst là địa hình của các kiểu phân rã đặc trưng thông thường được
đánh dấu bởi các hệ thống thoát nước theo hang động ngầm dưới đất. Đây là
các khu vực mà ở đó nền đá có lớp bị hoà tan hoặc các lớp, thông thường
(nhưng không phải là luôn luôn) là đá cacbonat chẳng hạn như đá vôi hay
đôlômit. Trong những chỗ như thế có rất ít hoặc thậm chí không có hệ thống
thoát nước trên bề mặt).
Nguồn nước khoáng ở nước ta phong phú và có ý nghĩa to lớn đối với
sự phát triển du lịch. Đến nay đã phát hiện được hơn 400 nguồn nước khoáng
tự nhiên với nhiệt độ từ 27 độ đến 105 độ C. Thành phần hóa học của nước
khoáng rất đa dạng, từ bicabonat natri đến clorua natri với độ khoáng hóa cao
có giá trị đối với du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh.
Việt Nam có hệ sinh thái động – thực vật rừng đa dạng. Tính đến nay,
cả nước đã có 107 rừng đặc dụng trong đó có 16 vườn quốc gia, 55 khu bảo
tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hóa – lịch sử – môi trường với tổng diện
tích là 2.092.466 ha. Đây là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái quý giá, nơi
bảo tồn khoảng 12.000 loài thực vật, gần 7.000 loài động vật với nhiều loại
đặc hữu và quí hiếm, trong đó có vườn quốc gia Ba Bể với hồ thiên nhiên
được đánh giá vào loại lớn trên thế giới đang được đề nghị UNESCO công
nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam phong phú với lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích có hơn
2.5000 di tich được Nhà nước chính thức xếp hạng. Tiêu biểu là quần thể di
tích triều Nguyễn ở cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
41
Ngoài các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công
truyền thống với kỹ năng đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những
nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hòa quyện, đan xen trên nền
kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông, đã tạo cho Du lịch Việt
Nam có nhiều điều kiện khai thác thế mạnh về du lịch văn hóa – lịch sử.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch Việt Nam vừa phân bố tương đối đồng
đều trong toànn quốc, vừa tập trung thành từng cụm gần các đô thị lớn, các
trục giao thông quan trọng thuận tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành
các tuyến du lịch bổ sung cho nhau giữa các vùng, có giá trị sử dụng cho mục
đích du lịch và sức hấp dẫn khách cao.
Các di sản của Việt Nam đƣợc UNESCO công nhận
Quần thể di tích cố đô Huế, năm 1993 là di sản văn hoá thế giới
Nhã nhạc cung đình Huế, năm 2003 là kiệt tác văn hoá vi vật thể và
truyền khẩu nhân loại
Vịnh Hạ Long, được công nhận 2 lần, năm 1994 là di sản thiên nhiên
thế giới và năm 2000 là di sản địa chất thế giới.
Phố cổ Hội An, năm 1999 là di sản văn hoá thế giới.
Thánh địa Mỹ Sơn, năm 1999 là di sản văn hoá thế giới.
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, năm 2003 là di sản thiên nhiên
thế giới.
Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, năm 2005 là kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
III. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
1. Đánh giá thị phần của ngành du lịch Việt Nam
Du lịch được đánh giá là một trong những ngành có tốc độ tăng
trưởng cao. Nếu năm 1990, Việt Nam mới chỉ đón 250 nghìn lượt khách
quốc tế và 1 triệu lượt khách trong nước thì đến năm 2005, số lượt khách
42
quốc tế đã lên tới con số 3,47 triệu người và lượng khách du lịch nội địa
đã tăng lên 15 triệu người. Đến năm 2006 số lượng khách quốc tế đã là
gần 3,6 triệu người và chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2007 số lượng
khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã đạt 3,478 triệu lượt, tức là tăng hơn
17,8% so với cùng kỳ năm 2006.
Bảng 2: Thị phần và biến động về lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
trong giai đoạn 1990 – 2006
Năm
Lƣợng khách
Thị phần (%)
Biến động (%)
(nghìn ngƣời)
1990
250
0,05
1995
1351
0,24
40,1
1996
1607
0,27
18,9
1997
1716
0,28
6,8
1998
1520
0,24
-11,4
1999
1781
0,27
17,2
2000
2140
0,30
20,2
2001
2330
0,33
8,9
2002
2630
0,37
12,8
2003
2430
0,34
-7,6
2004
2900
0,38
19,3
2005
3468
0,43
19,6
2006
3583
0,43
3,3
Nguồn: Tổng cục du lịch
Trong giai đoạn 1990 – 1995, ngành du lịch chứng kiến sự tăng trưởng
nhanh của dòng khách quốc tế đến Việt Nam. Đây là thời điểm các nhà đầu tư
nước ngoài ồ ạt vào tìm hiểu thị trường Việt Nam sau khi thực hiện chính
sách mở cửa, nới rộng các chính sach về đầu tư nước ngoài... cũng như việc
43
đơn giản hoá các thủ tục tạo điều kiện dễ dàng cho người Việt Nam định cư ở
nước ngoài về thăm quê hương.
Giai đoạn sau (1996 – 1999), thị trường du lịch quốc tế của Việt
Nam có nhiều biến động, tốc độ tăng trưởng thấp, đặc biệt năm 1998, số
lượng khách du lịch quốc tế giảm 0,2 triệu lượt người, tương đương giảm
11,4 %. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của những khó khăn về kinh tế
trong khu vực và đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á diễn ra
vào năm 1997. Nhưng ngay sau đó, du lịch Việt Nam đã dần phục hồi.
Tới năm 2002, du lịch Việt Nam được coi là điểm sáng trong phát triển
kinh tế đất nước. Bất chấp nguy cơ khủng bố quốc tế diễn ra nhiều nơi,
dòng khách quốc tế đến Việt Nam – một điểm đến an toàn và thân thiện,
ngày một đông. Ngay cả số khách Mỹ – một quốc gia đang bị đe doạ
khủng bố nặng nề – vẫn gia tăng mạnh (10,5%). Đáng chú ý là số khách
quốc tế đến Việt Nam với mục đích du lịch năm 2002 đã lên đến gần 1,5
triệu người, tăng 18,8% so với năm 2001.
Cuộc chiến tranh Iraq do liên quân Mỹ – Anh phát động và đại dịch
SARS bất ngờ ấp đến đã làm cho ngành du lịch Việt Nam bị thiệt hại nặng nề.
Đây là những nguyên nhân chính làm cho số lượng khách du lịch quốc tế tới
Việt Nam giảm 7,6% so với năm 2002. Tuy nhiên, với các đợt quảng bá lớn
và tổ chức thành công các sự kiện văn hoá trọng đại như: Năm du lịch Hạ
Long, Năm du lịch Sea Games, 100 năm Sapa, Liên hoan du lịch quốc tế hà
Nội 2003, Diễn đàn du lịch Mêkông lần thứ VIII... Việt Nam cũng đã nỗ lực
hết sức để khuyến khích du khách trở lại với đất nước mình. Lượng khách du
lịch quốc tế đến Việt Nam đã bắt đầu tăng mạnh kể từ năm 2004. Đây là một
thành công rất thuyết phục của Ngành du lịch Việt Nam trong thời điểm mà
du lịch thế giới có những dấu hiệu ảm đạm.
Xét về quốc gia gửi khách, hay là thị trường xuất khẩu dịch vụ du lịch
của Việt Nam, có thể nói các thị trường nổi bật là Đài Loan, Nhật Bản, Pháp,
44
Mỹ, Anh, Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc. Tuy nhiên trong những năm
gần đây, thị phần của thị trường Nhật, Pháp, Anh, Hồng Kông...đã giảm
xuống, còn thị phần của Mỹ, Trung Quốc lại tăng lên (thị phần của Trung
Quốc tăng từ 1,4% năm 1993 lên 27,6% năm 2002, Mỹ tương ứng là 4% lên
9,9%). Nguyên nhân là do cơ chế đi lại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã
thông thoáng hơn, quan hệ Việt Mỹ được cải thiện đáng kể khiến thị phần của
hai thị trường này tăng lên.
Tính đến tháng 9/2007 thì trong số du khách quốc tế đến Việt Nam, dẫn
đầu là các khách du lịch từ Trung Quốc, sau đó là Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan.
Nếu xét về số lượng khách du lịch quốc tế thì thị phần khách du lịch
quốc tế đến Việt Nam so với tổng số lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới
là rất nhỏ, không đáng kể. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể lạc quan tin tưởng
vào sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam khi trong giai đoạn 1990 –
2006, thị phần khách du lịch quốc tế đến Việt Nam so với tổng số lượng
khách du lịch quốc tế trên thế giới đã tăng vượt bậc từ 0,05% (1990) lên
0,43% (2006). So với năm 1990, lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm
2006 đã tăng lên hơn 14 lần.
2. Đánh giá về giá cả của dịch vụ du lịch
Hiện nay, môi trường cạnh tranh trong ngành du lịch chủ yếu vẫn là
cạnh tranh về giá. Dựa trên kết quả nghiên cứu của WTTC, có thể đánh giá
năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam so với một số đối thủ trong khu vực
về giá như sau:
45
Bảng 3: Đánh giá năng lực cạnh tranh về giá của ngành du lịch Việt
Nam
Tên nƣớc
Giá cả
Singapore
23,07
Malaixia
74,86
Thái Lan
83,12
Indonexia
65,46
Philippines
67,13
Việt Nam
84,75
Lào
57,51,
Campuchia
84,91
Nguồn: WTTC
Ghi chú:
1,00
- cạnh tranh kém nhất
100,00
- cạnh tranh tốt nhất
Na
- dữ liệu không có sẵn
Với thang điểm đã được đánh giá như trên, chúng ta có thể thấy rằng:
Việt Nam có năng lực cạnh tranh về giá. Trong 8 nước trên thì khả năng
cạnh tranh về giá của Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau Campuchia. Gần một nửa
(49%) số du khách quốc tế nêu lý do của quyết định chọn Việt Nam là điểm
đến nghỉ ngơi trong tương lai gần là giá cả hàng hóa và dịch vụ thấp.
Tuy nhiên, tình trạng nâng giá vô tội vạ xảy ra tại các điểm du lịch vào
mùa cao điểm, hay tại đối với các dịch vụ ăn uống và giải trí đã tạo ra những
ấn tượng rất không tốt đối với khách du lịch. Ngoài ra, khách du lịch quốc tế
còn phải đối mặt với tình trạng phân biệt đối xử về giá giữa khách nội địa và
khách quốc tế.
46
Hiện nay giá dịch vụ du lịch của Việt Nam, đặc biệt là các doanh
nghiệp khách sạn chưa được nhà nước kiểm soát chặt chẽ đã dẫn đến tình
trạng tăng giá phòng đồng loạt và quá cao so với giá của các khách sạn
trong khu vực Đông Nam Á. Điều này dẫn đến giá tour bị đội lên rất cao,
dẫn đến tình trạng khách du lịch sẽ chuyển hướng đi tới những nước khác
với giá tour rẻ hơn.
Các tour du lịch khuyến mại, giảm giá vào những thời điểm vắng
khách, không phải mùa du lịch của các công ty lữ hành cũng thu hút sự quan
tâm của rất nhiều du khách. Vào các thời điểm này, các công tu lữ hành tiến
hành giảm giá các tour du lịch từ 10 – 20%, thậm chí là 40%.
Giá cả du lịch cao cấp của Việt Nam lại cao hơn hẳn các nước trong
khu vực. Ví dụ như giá phòng khách sạn 3 sao trở lên ở Việt Nam luôn đắt
hơn hẳn ở Thái Lan đến vài chục phần trăm, hơn thế nữa các khách sạn lớn lại
còn tăng giá không theo chu kì. Theo đại diện của CITE (trung tâm du lịch
MICE), chi phí cho một tour du lịch MICE cao cấp tại Việt Nam đã ngang với
các nước trong khu vực trong khi dịch vụ để thu hút du khách của lại không
đa dạng bằng. Điều này đang làm giảm sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam,
rất nhiều đoàn khách đã bỏ tour vì giá phòng tăng quá nhanh trong thời gian
qua.
Điểm đáng lưu ý là, thời gian một du khách quốc tế ở Việt Nam trung
bình 9,6 ngày, nhiều hơn Thái Lan (8,13 ngày), Malaixia (6,1 ngày) và
Singapore (9,11 ngày), nhưng mức chi tiêu của du khách lại thấp nhất,chỉ có
65 USD/ngày so với Singapore là 130 USD/ngày, Thái Lan 100 USD/ngày và
Malaixia là 88 USD/ngày. Điều đó cho thấy hiệu quả kinh doanh du lịch của
Việt Nam là còn thấp so với các nước trong khu vực.
3. Đánh giá về chất lƣợng của các sản phẩm du lịch của Việt Nam
47
Lâu nay ngành du lịch Việt Nam thường đánh giá sự phát triển của
mình dựa trên số lượng du khách gia tăng mà chưa chú ý đánh giá việc tăng
chất lượng dịch vụ. Trong khi chất lượng mới là yếu tố giúp ngành du lịch
phát triển bền vững và đạt được doanh thu cao. Trong bảy tháng đầu năm
2007, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng đến 16,2% so với cùng kỳ năm
2006 (số lượng khách đến Việt Nam năm 2006 chỉ tăng 3% so với năm 2005),
nguyên nhân chính là tình hình bất ổn tại Thái Lan và Indonexia đã khiến
nhiều du khách quốc tế e ngại đến hai nước này, chuyển sang các quốc gia an
toàn hơn.
Đây là một cơ hội lớn với du lịch Việt Nam. Tuy nhiên nếu không nỗ
lực nâng cao chất lượng dịch vụ vào thời điểm này, để 70% du khách đến Việt
Nam không có ý định quay trở lại như điều tra mới đây của Tổng cục du lịch,
thì khi yếu tố may mắn qua đi, ngành du lịch Việt Nam sẽ khó giữ được lượng
khách tăng như hiện nay, thậm chí là trở lại mức cũ.
Kết quả điều tra năm 2005 cho thấy thời gian lưu lại Việt Nam của du
khách quốc tế đã tăng lên rõ rệt so với năm 2003. Số ngày bình quân chung
của một lượt khách tự sắp xếp đi đã từ 12,1 ngày theo điều tra năm 2003 tăng
lên 16,8 ngày năm 2005 và số ngày bình quân một lượt khách đi theo tour do
các công ty du lịch lữ hành tổ chức đã từ 8,5 ngày lên 9,7 ngày. Điều này
chứng tỏ ngành du lịch Việt Nam đã và đang ngày càng có nhiều sản phẩm du
lịch hấp dẫn hơn, đã thu hút và níu chân du khách quốc tế đến và ở lại Việt
Nam với thời gian lâu hơn.
Theo đánh giá của khách du lịch thì họ có ấn tượng tốt về Việt Nam vì
đây là một quốc gia: tuyệt diệu, có khí hậu dễ chịu; có điều kiện tự nhiên và
cảnh thiên nhiên đẹp, có nhiều nơi thăm quan. Ngoài ra “lòng hiếu khách
của người dân cũng là một yếu tố được khách du lịch đánh giá cao. Những
yếu tố mà du khách đánh giá cao ở Việt Nam là các giá trị về văn hoá và
dịch vụ mua sắm.
48