Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.42 KB, 99 trang )
2.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997 : Năng lực cạnh tranh
quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân đạt và duy trì mức tăng trưởng
cao về kinh tế, thu nhập và việc làm.
Cho tới năm 1999, theo WEF thì năng lực cạnh tranh quốc gia được
cấu thành từ 8 nhóm yếu tố chính với 155 chỉ tiêu, bao gồm : Độ mở của nền
kinh tế; Vai trò và hiệu lực của Chính phủ; Sự phát triển của hệ thống tài
chính, tiền tệ; Trình độ phát triển công nghệ; Trình độ phát triển cơ sở hạ
tầng; Trình độ quản lý của doanh nghiệp; Số lượng và chất lượng lao động và
Trình độ phát triển của thể chế, bao gồm hiệu lực của các cơ quan bảo vệ
pháp luật.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp lại thành ba
tiêu chí lớn là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá,
trong đó vai trò của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ ngày càng trở nên
quan trọng.
2.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp/ ngành
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được định nghĩa là năng
lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh
của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố tác động đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong đó cần phải phân biệt các yếu tố
ngoài doanh nghiệp và các yếu tố do doanh nghiệp chi phối.
Các yếu tố do doanh nghiệp chi phối bao gồm:
1.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, dựa trên phân tích thị
trường, lợi thế so sánh của doanh nghiệp, định hướng vào một mảng thị
trường nhất định, tập trung vào những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh
tranh, né tránh những đối thủ cạnh tranh quá mạnh
2.
Trình độ khoa học công nghệ, khả năng tiếp cận công nghệ và
đổi mới công nghệ hiện có, chi phí cho nghiên cứu và triển khai, số lượng các
13
bản quyền sáng chế, phát minh, đầu tư về kiểu dáng sản phẩm... là những yếu
tố quyết định hàng đầu về chất lượng và tính năng của sản phẩm.
3.
Sản phẩm: bên cạnh chất lượng, tính năng, kiểu dáng, tính độc
đáo hay sự khác biệt, sự nổi bật so với các sản phẩm khác, bao bì cũng là một
nhân tố quan trọng của sản phẩm
4.
Năng suất lao động: bao gồm các yếu tố liên quan đến người lao
động, các nhân tố tổng thể về năng suất lao động, vai trò của đào tạo, bồi
dưỡng nhân viên, người lao động.
5.
Chi phí sản xuất và quản lý: bao gồm những chi phí của sản xuất
kinh doanh và những chi phí quản lý, giao tiếp...
6.
Đầu tư cho nghiên cứu, triển khai, thương hiệu, kiểu dáng
công nghiệp.
Trong quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là
khả năng của một doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi
nhuận bình quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ bản chất của lợi thế cạnh
tranh là hướng tới mục tiêu lợi nhuận nhưng lại không giúp nhiều cho việc
phân tích các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh, đặc biệt là trong bối cảnh
cạnh tranh quốc tế. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp (HLFIC) của
OECD định nghĩa năng lực cạnh tranh là “khả năng của các doanh nghiệp,
các ngành các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập tương đối cao hơn và
mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối mặt với cạnh tranh quốc
tế”. Đây là một cách định nghĩa đã kết hợp cả cấp độ doanh nghiệp, ngành và
cấp độ quốc gia.
Xét về góc độ ngành, một ngành kinh tế được coi là có năng lực cạnh
tranh khi các doanh nghiệp trong ngành và sản phẩm chủ đạo của ngành có
năng lực cạnh tranh trên thị trường. Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh
của một ngành kinh tế bao gồm: lợi thế so sánh của ngành, môi trường kinh tế
vĩ mô và môi trường kinh doanh của ngành, năng lực cnạh tranh của các
14
doanh nghiệp trong ngành và năng lực cạnh tranh của sản phẩm/ dịch vụ đặc
thù của ngành.
2.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm là sự thể hiện thông qua các lợi
thế so sánh đối với sản phẩm cùng loại. Lợi thế so sánh của một sản phẩm bao
hàm các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên, như năng lực sản xuất, chi phí
sản xuất, chất lượng sản phẩm, dung lượng thị trường của sản phẩm. Khi nói
sản phẩm A do doanh nghiệp B sản xuất có năng lực cạnh tranh hơn sản phẩm
A do doanh nghiệp C sản xuất, là nói đến những lợi thế vượt trội của sản
phẩm do doanh nghiệp B sản xuất, như doanh nghiệp này có năng lực sản
xuất lớn hơn, có chi phí sản xuất trên 1 đơn vị sản phẩm thấp hơn, sản phẩm
có chất lượng cao hơn, có dung lượng thị trường được chiếm lĩnh lớn hơn.
Còn nếu so sánh với sản phẩm cùng loại nhập khẩu thì yếu tố lợi thế được thể
hiện cơ bản thông qua giá bản sản phẩm, giá trị sử dụng của sản phẩm và một
phần không nhỏ là tâm lý tiêu dùng.
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào
đó trong thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính
hơn hẳn của nó cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu như : Chất
lượng sản phẩm, thương hiệu, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực
phẩm; khối lượng và sự ổn định chất lượng của sản phẩm; kiểu dáng, mẫu mã
sản phẩm; môi trường thương mại; mức độ giao dịch và uy tín của sản phẩm
trên thị trường; sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách thương
mại như thuế, tỷ giá, tín dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ,... và cuối cùng là chỉ
tiêu về giá thành và giá cả sản xuất.
Cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của mỗi nền kinh tế thì các
quan hệ thương mại cũng phát triển, theo đó diễn ra sự mở rộng thị trường
trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất đưa ra thị
trường sẽ được người tiêu dùng thể hiện qua việc mua hay không mua sản
15
phẩm đó là biểu hiện tổng quát cuối cùng về năng lực cạnh tranh của sản
phẩm đó.
Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên một thị trường là quá
trình thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách
hàng trên một thị trường cụ thể và trong một thơi gian nhất định. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm có thể gắn với một doahh nghiệp, một quốc gia cụ
thể hoặc xét chung cho tất cả các quốc gia, các doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành, một sản phẩm, năng lực
cạnh tranh gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tài và thu được lợi nhuận trên thị
trường (nội địa và quốc tế) và nó được thể hiện cụ thể bằng lợi thế cạnh tranh
của sản phẩm. Tuy nhiên , năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiêp, ngành có mỗi quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Một quốc gia hay
nền kinh tế có năng lực cạnh tranh tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp/ ngành tạo
dựng được năng lực cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Nói các khác,
năng lực cạnh tranh quốc gia là một nguồn hình thành năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp/ngành. Khi các doanh nghiệp, ngành có năng lực cạnh tranh, nó
sẽ góp phần nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh
và do đó nó góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ du lịch
Rất khó có thể đưa ra những chỉ tiêu đánh giá được chính xác năng lực
cạnh tranh của một ngành, đặc biệt là một ngành dịch vụ như du lịch do còn
có những quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh cũng như những khó
khăn trong việc xác định các số liệu liên quan. Dưới đây là một số chỉ tiêu
thường gặp và được chấp nhận để đo lường năng lực cạnh tranh của ngành du
lịch, đặc biệt là dịch vụ du lịch một cách tương đối. Du lịch là một ngành dịch
vụ, vì thế chúng ta có thể áp dụng các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
của ngành dịch vụ nói chung vào ngành du lịch nói riêng.
16
3.1. Hệ số tham gia vào thị trường quốc tế (tính theo số lượng khách du
lịch quốc tế)
Hệ số tham gia vào thị trường quốc tế của ngành du lịch tính theo số
lượng khách du lịch quốc tế được xác định bằng tổng số lượng khách du lịch
đến quốc gia đó trong năm so với tổng số lượng khách du lịch quốc tế trên thế
giới trong năm đó. Hệ số này xác định thị phần, thể hiện điểm đến là quốc gia
đó có thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế hay không, vì vậy có thể được
dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành du lịch.
Thị phần của ngành du lịch là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm ngành
dịch vụ du lịch.
Thị phần ngành du lịch của 1 quốc gia = Tổng số lượng khách du lịch
quốc tế đến quốc gia đó trong 1 năm/Tổng số lượng khách du lịch quốc tế trên
thế giới trong năm đó.
3.2. Giá cả dịch vụ du lịch
Giá cả là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá năng
lực cạnh tranh trong ngành dịch vụ. Giá cả là một chỉ tiêu định lượng để đánh
giá năng lực cạnh tranh. Thông thường, khách hàng luôn mong muốn có được
những sản phẩm tốt nhất với mức giá thấp nhất. Tuy nhiên, trong cơ chế cạnh
tranh trên thị trường thế giới hiện nay, giá cao không đồng nghĩa với năng lực
cạnh tranh thấp. Giá cao thể hiện sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích và
họ sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đó.
Hiện nay, cạnh tranh về giá là một trong những cuộc cạnh tranh khốc
liệt nhất. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ
yếu dựa trên cơ sở nền sản xuất nhỏ có giá cả thấp, thường là đặc trưng của
các nước có thu nhập thấp. Vì thế sẽ gặp phải cạnh tranh khốc liệt từ các
doanh nghiệp lớn trong khu vực do tận dụng tính kinh tế nhờ quy mô được
giảm nhẹ.
17