Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.42 KB, 99 trang )
Lâu nay ngành du lịch Việt Nam thường đánh giá sự phát triển của
mình dựa trên số lượng du khách gia tăng mà chưa chú ý đánh giá việc tăng
chất lượng dịch vụ. Trong khi chất lượng mới là yếu tố giúp ngành du lịch
phát triển bền vững và đạt được doanh thu cao. Trong bảy tháng đầu năm
2007, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng đến 16,2% so với cùng kỳ năm
2006 (số lượng khách đến Việt Nam năm 2006 chỉ tăng 3% so với năm 2005),
nguyên nhân chính là tình hình bất ổn tại Thái Lan và Indonexia đã khiến
nhiều du khách quốc tế e ngại đến hai nước này, chuyển sang các quốc gia an
toàn hơn.
Đây là một cơ hội lớn với du lịch Việt Nam. Tuy nhiên nếu không nỗ
lực nâng cao chất lượng dịch vụ vào thời điểm này, để 70% du khách đến Việt
Nam không có ý định quay trở lại như điều tra mới đây của Tổng cục du lịch,
thì khi yếu tố may mắn qua đi, ngành du lịch Việt Nam sẽ khó giữ được lượng
khách tăng như hiện nay, thậm chí là trở lại mức cũ.
Kết quả điều tra năm 2005 cho thấy thời gian lưu lại Việt Nam của du
khách quốc tế đã tăng lên rõ rệt so với năm 2003. Số ngày bình quân chung
của một lượt khách tự sắp xếp đi đã từ 12,1 ngày theo điều tra năm 2003 tăng
lên 16,8 ngày năm 2005 và số ngày bình quân một lượt khách đi theo tour do
các công ty du lịch lữ hành tổ chức đã từ 8,5 ngày lên 9,7 ngày. Điều này
chứng tỏ ngành du lịch Việt Nam đã và đang ngày càng có nhiều sản phẩm du
lịch hấp dẫn hơn, đã thu hút và níu chân du khách quốc tế đến và ở lại Việt
Nam với thời gian lâu hơn.
Theo đánh giá của khách du lịch thì họ có ấn tượng tốt về Việt Nam vì
đây là một quốc gia: tuyệt diệu, có khí hậu dễ chịu; có điều kiện tự nhiên và
cảnh thiên nhiên đẹp, có nhiều nơi thăm quan. Ngoài ra “lòng hiếu khách
của người dân cũng là một yếu tố được khách du lịch đánh giá cao. Những
yếu tố mà du khách đánh giá cao ở Việt Nam là các giá trị về văn hoá và
dịch vụ mua sắm.
48
Dịch vụ mua sắm tại thị trường Việt Nam hấp dẫn, giá rẻ và kích thích
nhu cầu mua sắm, hàng hoá có giá phù hợp.
Việt Nam cũng là quốc gia có nhiều món ăn đặc sắc, mang bản sắc dân
tộc. Đặc biệt món phở của Việt Nam rất nổi tiếng và được các du khách quốc
tế ưa thích. Tuy nhiên món ăn Việt Nam chưa phải là yếu tố thu hút khách,
chỉ có một số ít du khách đồng ý rằng món ăn Việt Nam hấp dẫn đối với họ.
Đáng lưu ý là hầu như không có khách du lịch nào cho rằng họ thoả mãn với
các dịch vụ du lịch dựa trên hai tiêu chí: hướng dẫn viên tốt và dịch vụ tốt.
Dịch vụ du lịch mang tính đa ngành và tổng hợp cao vì nó liên quan tới
rất nhiều dịch vụ khác nhau. Dịch vụ du lịch sử dụng sản phẩm của các ngành
dịch vụ khác, đặc biệt là các ngành dịch vụ:
-
Dịch vụ vận tải, dịch vụ tài chính và dịch vụ thông tin.
-
Dịch vụ văn hoá, giải trí và thể thao, dịch vụ phân phối
-
Dịch vụ quảng cáo, dịch vụ hỗ trợ vận tải và dịch vụ xây dựng
Các dịch vụ khách sạn và nhà hàng (bao gồm cả phục vụ đồ ăn), dịch
vụ đại lí du lịch và điều hành tour du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch là những
dịch vụ chính, trực tiếp liên quan đến khách du lịch.
Riêng trong khu vực dịch vụ, giải trí - khu vực thu hút du khách
tiêu tiền nhiều nhất lại thu hút ít khách du lịch. Điều này là rất đáng tiếc ,
bởi vì mức độ hài lòng của du khách về truyền thống văn hoá rất cao, mà
truyền thống văn hoá phong phú là nguồn sáng tạo cho các sản phẩm lưu
niệm, các chương trình biểu diễn nghệ thuật dân tộc. Các điệu múa dân tộc,
các truyền thuyết lịch sử của nước ta nếu được dàn dựng công phu trong
một sân khấu hoành tráng thì chắc chắn hấp dẫn không kém chương trình
Alangkam của Thái Lan. Vấn đề ở đây là du lịch Việt Nam thiếu sự đầu tư.
Du lịch Việt Nam chỉ có thể là con gà đẻ trứng vàng nếu được đầu tư đúng
mức và đúng cách.
49
Du lịch Việt Nam cũng tạo ra nhiều ấn tượng không tốt với khách
du lịch. Thứ nhất là trong dịch vụ mua sắm cá nhân. Hiện nay rất nhiều
khách du lịch than phiền rằng họ phải chịu cơ chế nhiều giá, sự phân biệt
về giá giữa khách nội địa và khách nước ngoài. Ngoài ra những hiện
tượng như có quá nhiều người bán hàng rong bám theo khách, khách du
lịch quốc tế thường bị xích lô bắt chẹt giá, các chi phí khác cao đã tạo nên
những ấn tượng rất không đẹp trong lòng du khách về điểm đến du lịch
Việt Nam.
Ngoài ra, chất lượng của dịch vụ giao thông còn thiếu thốn và kém chất
lượng cũng là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển của du lịch
Việt Nam. Đường xá kém, hay tắc đường, thiếu vạch phân cách, dịch vụ đường
sắt chậm và kém chất lượng, thiếu phương tiện giao thông, chuyến bay nội địa
còn ít và hay bị hoãn là những yếu kém chính của dịch vụ vận chuyển.
Dịch vụ hướng dẫn viên du lịch còn yếu kém, trình độ về ngoại ngữ
thấp và thiếu nhiều thông tin về du lịch. Ngoài ra thủ tục hải quan còn phức
tạp, mất thời gian.
Có thể dễ nhận thấy là sản phẩm du lịch của Việt Nam còn chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch quốc tế. Việt Nam mới chỉ hấp
dẫn các du khách bằng các tài nguyên du lịch hoang sơ chứ không phải là các
dịch vụ du lịch mà ngành cung cấp. Nền văn hoá đặc trưng được coi là thế
mạnh của Việt Nam cũng chưa thực sự phát huy được vai trò là yếu tố thu hút
du lịch.
4. Đánh giá chất lƣợng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển nền
kinh tế. Đối với Du lịch Việt Nam, vấn đề đó không phải là ngoại lệ, nhất là
trong xu thế hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay của nước ta. Chính vì vậy,
vấn đề nguồn nhân lực hơn lúc nào hết, đang là thách thức không nhỏ đối với
50
bước tiến của du lịch Việt Nam. Theo đánh giá tổng hợp của WTTC thì chỉ số
năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực của một số nước trong khu vực Đông
Nam Á như sau:
Bảng 4: Đánh giá năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực của ngành du lịch
Việt Nam
Tên nƣớc
Nguồn nhân lực
Singapore
71,60
Malaixia
50,70
Thái Lan
57,80
Indonexia
44,36
Philippines
65,76
Việt Nam
48,51
Lào
na
Campuchia
22,69
Nguồn: WTTC
Ghi chú:
1,00
- cạnh tranh kém nhất
100,00
- cạnh tranh tốt nhất
Na
- dữ liệu không có sẵn
Theo đánh giá tổng hợp của WTTC thì Việt Nam không có năng lực
cạnh tranh về nguồn nhân lực du lịch so với các nước trong khu vực. Những
nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng kém năng lực cạnh tranh của nguồn
nhân lực du lịch Việt Nam là:
Đầu tiên phải kể đến tình trạng bất cập từ số lượng nguồn nhân lực.
Tính đến năm 2007 thì tổng số lao động trong lĩnh vực du lịch của nước ta
là 850.000 người, trong đó tổng số lao động trực tiếp là 250.000 người.
Tuy nhiên chỉ có khoảng 50% trong số này là qua đào tạo. Theo dự báo,
lực lượng này ước tính đạt 350.000 vào năm 2010 và năm 2015 là hơn
51