1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Dịch vụ - Du lịch >

Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.42 KB, 99 trang )


3.1. Hệ số tham gia vào thị trường quốc tế (tính theo số lượng khách du

lịch quốc tế)

Hệ số tham gia vào thị trường quốc tế của ngành du lịch tính theo số

lượng khách du lịch quốc tế được xác định bằng tổng số lượng khách du lịch

đến quốc gia đó trong năm so với tổng số lượng khách du lịch quốc tế trên thế

giới trong năm đó. Hệ số này xác định thị phần, thể hiện điểm đến là quốc gia

đó có thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế hay không, vì vậy có thể được

dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành du lịch.

Thị phần của ngành du lịch là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm ngành

dịch vụ du lịch.

Thị phần ngành du lịch của 1 quốc gia = Tổng số lượng khách du lịch

quốc tế đến quốc gia đó trong 1 năm/Tổng số lượng khách du lịch quốc tế trên

thế giới trong năm đó.

3.2. Giá cả dịch vụ du lịch

Giá cả là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá năng

lực cạnh tranh trong ngành dịch vụ. Giá cả là một chỉ tiêu định lượng để đánh

giá năng lực cạnh tranh. Thông thường, khách hàng luôn mong muốn có được

những sản phẩm tốt nhất với mức giá thấp nhất. Tuy nhiên, trong cơ chế cạnh

tranh trên thị trường thế giới hiện nay, giá cao không đồng nghĩa với năng lực

cạnh tranh thấp. Giá cao thể hiện sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích và

họ sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đó.

Hiện nay, cạnh tranh về giá là một trong những cuộc cạnh tranh khốc

liệt nhất. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ

yếu dựa trên cơ sở nền sản xuất nhỏ có giá cả thấp, thường là đặc trưng của

các nước có thu nhập thấp. Vì thế sẽ gặp phải cạnh tranh khốc liệt từ các

doanh nghiệp lớn trong khu vực do tận dụng tính kinh tế nhờ quy mô được

giảm nhẹ.



17



3.3. Chất lượng sản phẩm chủ yếu của ngành

Có thể liệt kê một số chỉ tiêu để đánh giá chất lượng dịch vụ như sự tin

cậy, tinh thần trách nhiệm, sự đảm bảo, sự đồng cảm và tính hữu hình.

Sự tin cậy: Chính là khả năng cung cấp dịch vụ như đã hứa một cách

tin cậy và chính xác, nó còn bao gồm sự nhất quán mà ngay từ lần đầu tiên

cung ứng dịch vụ công ty phải thực hiện. Đảm bảo dịch vụ tin cậy là một

trong những trông đợi cơ bản của khách hàng.

Tinh thần trách nhiệm: Là sự sẵn sàng giúp đỡ khách hàng một cách

tích cực và cung cấp dịch vụ một cách hăng hái. Trong trường hợp dịch vụ sai

hỏng, khả năng khôi phục nhanh chóng có thể tạo ra cảm nhận tích cực về

chất lượng.

Sự đảm bảo: là việc thực hiện dịch vụ một cách lịch sự và kính trọng

khách hàng, giao tiếp có kết quả với khách hàng, thực sự quan tâm và giữ bí

mật cho họ.

Sự đồng cảm: thể hiện việc chăm sóc chu đáo, chú ý tới cá nhân khách

hàng. Sự đồng cảm bao gồm khả năng tiếp cận và nỗ lực tìm hiểu nhu cầu của

khách hàng.

Tính hữu hình: là hiện diện của điều kiện làm việc, trang thiết bị, con

người và các phương tiện thông tin.

Đây cũng chính là 5 chỉ tiêu đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch. Trong

các chỉ tiêu trên, có bốn chỉ tiêu mang tính vô hình, chỉ có 1 chỉ tiêu mang

tính hữu hình nên các nhà cung ứng du lịch thường coi chỉ tiêu hữu hình

chính là bản thông điệp gửi tới khách hàng.

Dịch vụ càng phức tạp và vô hình thì khách hàng sẽ càng tin vào các

yếu tố hữu hình. Môi trường vật chất xung quanh dịch vụ là phần chính yếu

phản ánh tính hữu hình của dịch vụ. Chẳng hạn môi trường xung quanh các

trang trí, yếu tố xã hội, phương tiện thông tin giá cả.



18



3.4. Chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ

được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Nguồn nhân lực, theo

GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước

hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó.

Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trong trình độ kiến thức, kỹ năng

và thái độ của người lao động.

Nguồn nhân lực đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất

quyết định sự phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của toàn thể xã hội.

Nguồn nhân lực, cùng với tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ đã trở thành

một trong những yếu tố cơ bản nhất cho sự phát triển.

Hoạt động du lịch là một hoạt động có những đặc thù riêng trong ngành

dịch vụ. Đối với hoạt động du lịch, đòi hỏi nguồn nhânlực phải đáp ứng được

các yêu cầu cơ bản sau:

 Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của ngành du lịch, sự hiểu

biết ngoại ngữ là vấn đề thiết yếu. Trong kinh doanh du lịch quốc tế, việc

thông thạo ít nhất một trong những ngoại ngữ thông dụng trong hoạt động du

lịch: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Nga... là rất cần thiết do yêu cầu

hàng ngày phải trực tiếp giao dịch với khách du lịch,đặc biệt là khách du lịch

quốc tế. Thiếu hiểu biết về ngoại ngữ sẽ là một trở ngại rất lớn, thậm chí làm

cho các chức danh trong lao động không thể hoàn thành được nhiệm vụ của

mình. Việc thông thạo ít nhất một trong các ngôn ngữ thông dụng quốc tế là

cần thiết không chỉ đối với ngành du lịch mà còn đối với tất cả các ngành kinh

tế trong giai đoạn hiện nay.

 Trình độ hiểu biết về kinh tế, yêu cầu này có ý nghĩa rất quan trọng

đối với mọi chức danh trong hoạt động du lịch. Mỗi doanh nghiệp đều được

thành lập về tổ chức hoạt động với mục đích nhằm tăng nguồn thu, tăng lợi



19



nhuận. Trong công tác tổ chức kinh doanh và quản lý tồn tại hoàng loạt những

hoạt động có nội dung kinh tế đòi hỏi mọi chức danh lao động trong doanh

nghiệp được bồi dưỡng, đào tạo về trình độ nghề nghiệp chuyên môn và tư

duy kinh tế. Kiến thức về kinh tế có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc

tổ chức, thực hiện các quá trình thiết lập, cải tạo, duy trì, hiện đại hoá cơ sở

vật chất và công nghệ sản xuất kinh doanh nhằm giúp doanh nghiệp tổ chức

hoạt động có hiệu quả kinh tế cao nhất.

 Sự hiểu biết về những vấn đề chính trị và xã hội và văn hoá, lịch sử

là một yêu cầu rất quan trọng. Khách du lịch thường có rất nhiều thắc mắc cần

hỏi đáp, vì thế nếu các chức danh trong ngành du lịch phải có những hiểu biết

nhất định để có thể thoả mãn nhu cầu về thông tin của họ.

 Ngoài ra, đội ngũ lao động cần có tâm lý thoải mái, nhiệt tình, sẵn

sàng phục vụ du khách trong mọi điều kiện. Sự thân thiện và thái độ nhiệt tình

sẽ tạo tâm lý thoải mái với khách du lịch, giúp người làm du lịch có thể hoàn

thành tốt công việc.

3.5. Chất lượng cơ sở hạ tầng

Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp

quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và

xã hội hoá cao.

Do vậy hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng không chỉ bao

gồm các yếu tố của riêng ngành du lịch mà bao gồm cả các yếu tố của các

ngành khác được huy động vào hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ

du lịch thoả mãn nhu cầu của con người.

Cơ sở vật chất là một nguồn lực, một điều kiện không thể thiếu để phát

triển hoạt động kinh doanh của bất ký một ngành kinh tế nào, đặc biệt là

ngành kinh doanh du lịch. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định

doanh thu, lợi nhuận và sự lớn mạnh của doanh nghiệp.



20



Cơ sở vật chất được đầu tư tốt , đồng bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho

phát triển du lịch. Một trong những đặc trưng của ngành du lịch là chủ yếu sử

dụng sản phẩm của các ngành khác để tạo nên sản phẩm của mình. Trong đó,

sản phẩm của các ngành như xây dựng, giao thông vận tải chiếm vị trí chủ

yếu. Nhờ có sự tham gia đóng góp của những ngành kinh tế trên mà ngành du

lịch mới có thể có được những khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí,

các đội xe phục vụ nhu cầu đi lại của khách du lịch.

Nếu cơ sở vật chất hạ tầng và kỹ thuật yếu kém, không đồng bộ, không

có quy hoạch thì sẽ gây nên khó khăn cho du lịch, làm chậm bước phát triển

và ảnh hưởng đến sự phục nhu cầu thiết yếu của khách.

II. HỘI NHẬP VỀ DU LỊCH CỦA VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DU LỊCH



1. Hội nhập về du lịch của Việt Nam

1.1. Cam kết về dịch vụ du lịch của Việt Nam khi gia nhập WTO

Việc Việt Nam quyết định gia nhập WTO là một quyết định đúng đắn,

phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam và xu thế toàn cầu hoá

kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Sau khi trở thành thành viên

chính thức của Tổ chức thương mại thế giới, các doanh nghiệp cung cấp dịch

vụ du lịch của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển.

Để gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam đã phải đưa

ra cam kết trong lĩnh vực dịch vụ. Nội dung của bản chào này bao gồm các

cam kết chung về 4 phương thức cung cấp dịch vụ và các cam kết cụ thể đối

với từng ngành và phân ngành dịch vụ.



21



Bảng 1: Mẫu cam kết của ngành dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan

Ngành và



Hạn chế



Hạn chế



Cam kết



phân ngành



tiếp cận thị trƣờng



đối xử quốc gia



bổ sung



A. Khách



(1) Không hạn chế



(1) Không hạn chế



B. Dịch vụ (1) không hạn chế



(1) không hạn chế



đại



(2) không hạn chế



sạn và nhà

hàng







lữ (2) không hạn chế



hành và điều (3) không hạn chế, ngoại (3) không hạn chế,

hành tour



trừ các nhà cung cấp DV trừ hướng dẫn viên

nước ngoài được phép trong doanh nghiệp

cung cấp DV dưới hình có vốn đầu tư NN là

thức liên doanh với đối tác công dân Việt Nam.

Việt Nam mà không bị Được phép đưa khách

hạn chế phần vốn góp của vào du lịch Việt Nam.

phía NN.



(4) Chưa cam kết, trừ



(4) Chưa cam kết, trừ các các cam kết chung.

cam kết chung.

C. Dịch vụ

hướng dẫn

viên du lịch

D. Dịch vụ

khác

Nguồn: Tổng cục du lịch

Nội dung cam kết

- Diện cam kết: Việt Nam chỉ cam kết dịch vụ khách sạn và nhà hàng,

dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour du lich. Không cam kết dịch vụ

hướng dẫn viên du lịch.

22



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

×