1. Trang chủ >
  2. Kinh tế - Quản lý >
  3. Dịch vụ - Du lịch >

Đánh giá thị phần của ngành du lịch Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.42 KB, 99 trang )


quốc tế đã lên tới con số 3,47 triệu người và lượng khách du lịch nội địa

đã tăng lên 15 triệu người. Đến năm 2006 số lượng khách quốc tế đã là

gần 3,6 triệu người và chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2007 số lượng

khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã đạt 3,478 triệu lượt, tức là tăng hơn

17,8% so với cùng kỳ năm 2006.

Bảng 2: Thị phần và biến động về lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam

trong giai đoạn 1990 – 2006

Năm



Lƣợng khách



Thị phần (%)



Biến động (%)



(nghìn ngƣời)

1990



250



0,05



1995



1351



0,24



40,1



1996



1607



0,27



18,9



1997



1716



0,28



6,8



1998



1520



0,24



-11,4



1999



1781



0,27



17,2



2000



2140



0,30



20,2



2001



2330



0,33



8,9



2002



2630



0,37



12,8



2003



2430



0,34



-7,6



2004



2900



0,38



19,3



2005



3468



0,43



19,6



2006



3583



0,43



3,3



Nguồn: Tổng cục du lịch

Trong giai đoạn 1990 – 1995, ngành du lịch chứng kiến sự tăng trưởng

nhanh của dòng khách quốc tế đến Việt Nam. Đây là thời điểm các nhà đầu tư

nước ngoài ồ ạt vào tìm hiểu thị trường Việt Nam sau khi thực hiện chính

sách mở cửa, nới rộng các chính sach về đầu tư nước ngoài... cũng như việc



43



đơn giản hoá các thủ tục tạo điều kiện dễ dàng cho người Việt Nam định cư ở

nước ngoài về thăm quê hương.

Giai đoạn sau (1996 – 1999), thị trường du lịch quốc tế của Việt

Nam có nhiều biến động, tốc độ tăng trưởng thấp, đặc biệt năm 1998, số

lượng khách du lịch quốc tế giảm 0,2 triệu lượt người, tương đương giảm

11,4 %. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của những khó khăn về kinh tế

trong khu vực và đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á diễn ra

vào năm 1997. Nhưng ngay sau đó, du lịch Việt Nam đã dần phục hồi.

Tới năm 2002, du lịch Việt Nam được coi là điểm sáng trong phát triển

kinh tế đất nước. Bất chấp nguy cơ khủng bố quốc tế diễn ra nhiều nơi,

dòng khách quốc tế đến Việt Nam – một điểm đến an toàn và thân thiện,

ngày một đông. Ngay cả số khách Mỹ – một quốc gia đang bị đe doạ

khủng bố nặng nề – vẫn gia tăng mạnh (10,5%). Đáng chú ý là số khách

quốc tế đến Việt Nam với mục đích du lịch năm 2002 đã lên đến gần 1,5

triệu người, tăng 18,8% so với năm 2001.

Cuộc chiến tranh Iraq do liên quân Mỹ – Anh phát động và đại dịch

SARS bất ngờ ấp đến đã làm cho ngành du lịch Việt Nam bị thiệt hại nặng nề.

Đây là những nguyên nhân chính làm cho số lượng khách du lịch quốc tế tới

Việt Nam giảm 7,6% so với năm 2002. Tuy nhiên, với các đợt quảng bá lớn

và tổ chức thành công các sự kiện văn hoá trọng đại như: Năm du lịch Hạ

Long, Năm du lịch Sea Games, 100 năm Sapa, Liên hoan du lịch quốc tế hà

Nội 2003, Diễn đàn du lịch Mêkông lần thứ VIII... Việt Nam cũng đã nỗ lực

hết sức để khuyến khích du khách trở lại với đất nước mình. Lượng khách du

lịch quốc tế đến Việt Nam đã bắt đầu tăng mạnh kể từ năm 2004. Đây là một

thành công rất thuyết phục của Ngành du lịch Việt Nam trong thời điểm mà

du lịch thế giới có những dấu hiệu ảm đạm.

Xét về quốc gia gửi khách, hay là thị trường xuất khẩu dịch vụ du lịch

của Việt Nam, có thể nói các thị trường nổi bật là Đài Loan, Nhật Bản, Pháp,

44



Mỹ, Anh, Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc. Tuy nhiên trong những năm

gần đây, thị phần của thị trường Nhật, Pháp, Anh, Hồng Kông...đã giảm

xuống, còn thị phần của Mỹ, Trung Quốc lại tăng lên (thị phần của Trung

Quốc tăng từ 1,4% năm 1993 lên 27,6% năm 2002, Mỹ tương ứng là 4% lên

9,9%). Nguyên nhân là do cơ chế đi lại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã

thông thoáng hơn, quan hệ Việt Mỹ được cải thiện đáng kể khiến thị phần của

hai thị trường này tăng lên.

Tính đến tháng 9/2007 thì trong số du khách quốc tế đến Việt Nam, dẫn

đầu là các khách du lịch từ Trung Quốc, sau đó là Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản,

Đài Loan.

Nếu xét về số lượng khách du lịch quốc tế thì thị phần khách du lịch

quốc tế đến Việt Nam so với tổng số lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới

là rất nhỏ, không đáng kể. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể lạc quan tin tưởng

vào sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam khi trong giai đoạn 1990 –

2006, thị phần khách du lịch quốc tế đến Việt Nam so với tổng số lượng

khách du lịch quốc tế trên thế giới đã tăng vượt bậc từ 0,05% (1990) lên

0,43% (2006). So với năm 1990, lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm

2006 đã tăng lên hơn 14 lần.

2. Đánh giá về giá cả của dịch vụ du lịch

Hiện nay, môi trường cạnh tranh trong ngành du lịch chủ yếu vẫn là

cạnh tranh về giá. Dựa trên kết quả nghiên cứu của WTTC, có thể đánh giá

năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam so với một số đối thủ trong khu vực

về giá như sau:



45



Bảng 3: Đánh giá năng lực cạnh tranh về giá của ngành du lịch Việt

Nam

Tên nƣớc



Giá cả



Singapore



23,07



Malaixia



74,86



Thái Lan



83,12



Indonexia



65,46



Philippines



67,13



Việt Nam



84,75



Lào



57,51,



Campuchia



84,91



Nguồn: WTTC



Ghi chú:



1,00



- cạnh tranh kém nhất



100,00



- cạnh tranh tốt nhất



Na



- dữ liệu không có sẵn



Với thang điểm đã được đánh giá như trên, chúng ta có thể thấy rằng:

Việt Nam có năng lực cạnh tranh về giá. Trong 8 nước trên thì khả năng

cạnh tranh về giá của Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau Campuchia. Gần một nửa

(49%) số du khách quốc tế nêu lý do của quyết định chọn Việt Nam là điểm

đến nghỉ ngơi trong tương lai gần là giá cả hàng hóa và dịch vụ thấp.

Tuy nhiên, tình trạng nâng giá vô tội vạ xảy ra tại các điểm du lịch vào

mùa cao điểm, hay tại đối với các dịch vụ ăn uống và giải trí đã tạo ra những

ấn tượng rất không tốt đối với khách du lịch. Ngoài ra, khách du lịch quốc tế

còn phải đối mặt với tình trạng phân biệt đối xử về giá giữa khách nội địa và

khách quốc tế.



46



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

×