Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.42 KB, 99 trang )
Việt Nam có những lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý, kinh tế và chính trị.
Nằm ở trung tâm Đông Nam Á, lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa
vừa thông rộng với đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường
biển, đường sông, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Đây là tiền đề
rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch quốc tế.
Nước ta có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào, dân tộc
Việt Nam thông minh, cần cù, mến khách là những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho du lịch phát triển.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam phong phú và
đa dạng. Các đặc điểm đa dạng về cấu trúc địa hình biển và hải đảo, đồng
bằng, đồi núi, cao nguyên đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam sự đa dạng và phong
phú về cảnh quan và các hệ sinh thái có giá trị cho phát triển nhiều loại hình
du lịch, đặc biệt là các hệ sinh thái biển - đảo, hệ sinh thái sông, hồ, hệ sinh
thái rừng, hang động.
Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài đứng thứ 27 trong 156 quốc gia có
biển trên thế giới và là nước ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á. Đường bờ
biển Việt Nam trải dài trên 3.260 km qua 15 vĩ độ với 125 bãi biển có các
điều kiện thuận lợi cho họat động nghỉ dưỡng, tắm biển và vui chơi giải trí,
trong đó có nhiều bãi biển hấp dẫn như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thuận An,
Lăng Cô, Non Nước, Văn Phong - Đại Lãnh, Nha Trang, Phan Thiết, Long
Hải, Vũng Tàu, Hà Tiên... Đặc điểm hình thái địa hình vùng ven biển tạo ra
nhiều vịnh đẹp có tiềm năng phát triển du lịch lớn như Vịnh Hạ Long, vịnh
Văn Phong, Vịnh Cam Ranh... Trong đó vịnh Hạ Long đã được UNESCO
công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Trong tổng số hơn 2.700 đảo lớn nhỏ
ven bờ, nhiều đảo như Cái Bầu, Cát Bà, Tuần Châu, Cù Lao Chàm, Phú Quý,
Côn Đảo, Phú Quốc... với hệ sinh thái phong phú, cảnh quan đẹp, là nơi có
điều kiện hình thành các khu, điểm du lịch hấp dẫn.
40
Với khoảng 50.000 km2 địa hình karst, Việt Nam được xem là nước có
tiềm năng du lịch hang động, thác, ghềnh to lớn, trong đó có hơn 200 hang
động đã được phát hiện, điển hình là động Phong Nha với chiều dài gần 8 km,
được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
(Địa hình karst là địa hình của các kiểu phân rã đặc trưng thông thường được
đánh dấu bởi các hệ thống thoát nước theo hang động ngầm dưới đất. Đây là
các khu vực mà ở đó nền đá có lớp bị hoà tan hoặc các lớp, thông thường
(nhưng không phải là luôn luôn) là đá cacbonat chẳng hạn như đá vôi hay
đôlômit. Trong những chỗ như thế có rất ít hoặc thậm chí không có hệ thống
thoát nước trên bề mặt).
Nguồn nước khoáng ở nước ta phong phú và có ý nghĩa to lớn đối với
sự phát triển du lịch. Đến nay đã phát hiện được hơn 400 nguồn nước khoáng
tự nhiên với nhiệt độ từ 27 độ đến 105 độ C. Thành phần hóa học của nước
khoáng rất đa dạng, từ bicabonat natri đến clorua natri với độ khoáng hóa cao
có giá trị đối với du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh.
Việt Nam có hệ sinh thái động – thực vật rừng đa dạng. Tính đến nay,
cả nước đã có 107 rừng đặc dụng trong đó có 16 vườn quốc gia, 55 khu bảo
tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hóa – lịch sử – môi trường với tổng diện
tích là 2.092.466 ha. Đây là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái quý giá, nơi
bảo tồn khoảng 12.000 loài thực vật, gần 7.000 loài động vật với nhiều loại
đặc hữu và quí hiếm, trong đó có vườn quốc gia Ba Bể với hồ thiên nhiên
được đánh giá vào loại lớn trên thế giới đang được đề nghị UNESCO công
nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam phong phú với lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích có hơn
2.5000 di tich được Nhà nước chính thức xếp hạng. Tiêu biểu là quần thể di
tích triều Nguyễn ở cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
41
Ngoài các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công
truyền thống với kỹ năng đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những
nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hòa quyện, đan xen trên nền
kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông, đã tạo cho Du lịch Việt
Nam có nhiều điều kiện khai thác thế mạnh về du lịch văn hóa – lịch sử.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch Việt Nam vừa phân bố tương đối đồng
đều trong toànn quốc, vừa tập trung thành từng cụm gần các đô thị lớn, các
trục giao thông quan trọng thuận tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành
các tuyến du lịch bổ sung cho nhau giữa các vùng, có giá trị sử dụng cho mục
đích du lịch và sức hấp dẫn khách cao.
Các di sản của Việt Nam đƣợc UNESCO công nhận
Quần thể di tích cố đô Huế, năm 1993 là di sản văn hoá thế giới
Nhã nhạc cung đình Huế, năm 2003 là kiệt tác văn hoá vi vật thể và
truyền khẩu nhân loại
Vịnh Hạ Long, được công nhận 2 lần, năm 1994 là di sản thiên nhiên
thế giới và năm 2000 là di sản địa chất thế giới.
Phố cổ Hội An, năm 1999 là di sản văn hoá thế giới.
Thánh địa Mỹ Sơn, năm 1999 là di sản văn hoá thế giới.
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, năm 2003 là di sản thiên nhiên
thế giới.
Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, năm 2005 là kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
III. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
1. Đánh giá thị phần của ngành du lịch Việt Nam
Du lịch được đánh giá là một trong những ngành có tốc độ tăng
trưởng cao. Nếu năm 1990, Việt Nam mới chỉ đón 250 nghìn lượt khách
quốc tế và 1 triệu lượt khách trong nước thì đến năm 2005, số lượt khách
42
quốc tế đã lên tới con số 3,47 triệu người và lượng khách du lịch nội địa
đã tăng lên 15 triệu người. Đến năm 2006 số lượng khách quốc tế đã là
gần 3,6 triệu người và chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2007 số lượng
khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã đạt 3,478 triệu lượt, tức là tăng hơn
17,8% so với cùng kỳ năm 2006.
Bảng 2: Thị phần và biến động về lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
trong giai đoạn 1990 – 2006
Năm
Lƣợng khách
Thị phần (%)
Biến động (%)
(nghìn ngƣời)
1990
250
0,05
1995
1351
0,24
40,1
1996
1607
0,27
18,9
1997
1716
0,28
6,8
1998
1520
0,24
-11,4
1999
1781
0,27
17,2
2000
2140
0,30
20,2
2001
2330
0,33
8,9
2002
2630
0,37
12,8
2003
2430
0,34
-7,6
2004
2900
0,38
19,3
2005
3468
0,43
19,6
2006
3583
0,43
3,3
Nguồn: Tổng cục du lịch
Trong giai đoạn 1990 – 1995, ngành du lịch chứng kiến sự tăng trưởng
nhanh của dòng khách quốc tế đến Việt Nam. Đây là thời điểm các nhà đầu tư
nước ngoài ồ ạt vào tìm hiểu thị trường Việt Nam sau khi thực hiện chính
sách mở cửa, nới rộng các chính sach về đầu tư nước ngoài... cũng như việc
43