Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.36 MB, 420 trang )
Ngày nay, mọi hàng hoá kinh tế nói trên đợc hợp thành ngoài ba yếu tố cơ bản là
lao động, đất đai (tài nguyên của đất và trong lòng đất) và t bản (còn gọi là vốn), còn
cần
đến khoa học công nghệ, tri thức và thông tin. Vốn là yếu tố thuộc loại khác hẳn với lao
động và đất đai, nó đợc dùng để chỉ một hàng hoá, một đầu ra của một quá trình sản
xuất. Vốn có hai loại là vốn vật chất và vốn tài chính, bao gồm nhà cửa, đờng sá, cầu
cống thiết bị, kho tàng... tiền, chứng khoán, tài chính.
Gần đây các nhà nghiên cứu kinh tế nh Rômơ, Sumpitơ, Sôlâu...đều thừa nhận tri
thức, thông tin, công nghệ là yếu tố nội tại của hệ thống kinh tế. Tri thức và công nghệ
trở thành yếu tố thứ ba của sản xuất, bên cạn vốn và lao động. Kinh tế dựa vào tri thức sẽ
chuyển kinh tế thế giới sang lý thuyết mới, không còn là sự khan hiếm nữa mà là kinh tế
dựa trên d dật.
Sự lựa chọn kinh tế phải xuất phát từ nhu cầu của thị trờng và phải căn cứ vào các
nguồn lực, tài nguyên khan hiếm đợc sử dụng. Sự quyết định lựa chọn của nhà kinh tế
là lựa chọn hợp lý, hiệu quả kinh tế theo mục tiêu của hệ thống kinh tế.
- Tài nguyên để sản xuất ra hàng hoá còn khan hiếm nên buộc xã hội phải lựa
chọn sản xuất hàng hoá nào mà tơng đối khan hiếm. Doanh nghiệp với chức năng chủ
yếu là tạo ra của cải và dịch vụ. Chức năng tiêu dùng của doanh nghiệp chủ yếu là tiêu
dùng trung gian. Các doanh nghiệp phải tự lựa chọn khi sản xuất hàng hoá và dịch vụ
nhằm thu đợc lợi nhuận tối đa từ nguồn tài nguyên có hạn. Quyết định quan trọng
nhất của một nền kinh tế, một doanh nghiệp là xác định hợp lý, đúng đắn có hiệu quả
nhất đầu ra là hàng hoá, dịch vụ phù hợp với đầu vào có hạn là đất đai, lao động, máy
móc, nguyên vật liệu...
Đối với hộ gia đình chức năng chủ yếu với họ là tiêu dùng cuối cùng nhờ vào các
khoản thu nhập. Sự lựa chọn về kinh tế với họ là sự lựa chọn tiêu dùng. Tiêu dùng cuối
cùng là tiêu dùng để thoả mãn trực tiếp những nhu cầu của con ngời.
Bản chất và định nghĩa về kinh tế học:
+ Về bản chất, kinh tế học là khoa học của sự lựa chọn, nó nghiên cứu lựa chọn
phơng thức phân phối và cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm hay nguồn lực
hữu hạn giữa các khả năng có thể sử dụng chúng. Nguồn lực đợc các nhà kinh tế quan
tâm là những nguồn khan hiếm. Kinh tế học không phải là một khoa học chính xác vì bản
thân nó chỉ là các quy luật kinh tế, chỉ đúng ở mức độ trung bình, chúng không phải là
quan hệ chính xác
"Kinh tế học là khoa học nghiên cứu những nguồn hiếm hoi đợc dùng nh thế
nào để thoả mãn các nhu cầu của con ngời trong xã hội. Nó quan tâm đến những
hoạt động chủ yếu của sản xuất, phân phối và tiêu dùng những của cải và những thể
chế hành động làm cho hành động ấy đợc thuận lợi dễ dàng" (Theo Edmond
Malinvaud).
14
" Kinh tế học là khoa học nghiên cứu cách c xử của con ngời nh là mối quan
hệ giữa mục đích cuối cùng và các phơng tiện khan hiếm có thể sử dụng theo các
cách khác nhau" (Định nghĩa của Robins -1935).
+ Kinh tế học thờng nghiên cứu sự lựa chọn phơng tiện để đạt mục đích cuối cùng
chứ không chọn bản thân mục đích. Tuy nhiên về khía cạnh này, các nhà kinh tế vẫn còn
có sự tranh luận. Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng: Kinh tế học không quan tâm đến mục
đích hay các nhà kinh tế chỉ quan tâm sâu sắc tới các mục tiêu của hệ thống kinh tế.
Theo phân tích của nhà kinh tế Patricia M.Hillbrandt thì cả hai quan điểm đều đúng vì
đều hớng vào mục tiêu của hệ thống kinh tế, ví dụ nh sự tăng trởng của thu nhập
quốc dân không đợc đặt ra nh là những mục đích cuối cùng mà chỉ là phơng tiện cho
các mục tiêu khác.
Qua nghiên cứu hoạt động trong các công ty cho thấy: Hầu hết các công ty đều có
một số mục tiêu với mức độ khác nhau, trong đó có trách nhiệm phúc lợi đối với các
công nhân, cổ đông, các khách hàng và những ngời khác. Đôi khi những mục tiêu này
mâu thuẫn nhau và khi đó không còn là các việc của nhà kinh tế, mà là ngời hoạch định
chính sách của công ty sẽ phải tự quyết định thực hiện theo những dự đoán riêng của
mình về giá trị để xác định các mục tiêu của công ty qua từng thời kỳ.
Trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu của nhà kinh tế, sự lựa chọn cuối cùng
về các mục đích không phải là của nhà kinh tế. Vai trò của nhà kinh tế chỉ là nêu rõ mối
quan hệ về các khả năng khác nhau để đi đến quyết định lựa chọn. Trong các phân tích
đối với công ty, các nhà kinh tế đều lấy lợi nhuận tối đa làm mục đích cuối cùng. Cho đến
nay, điều đó vẫn đợc đặt ra nh một mục tiêu quan trọng nhất.
+ Kinh tế học ngày càng liên quan đến nhiều các môn khoa học khác nh khoa
học chính trị, tâm lý học, nhân chủng học..., trong đó đặc biệt chú trọng đến bộ môn
khoa học về quản lý.
Quản lý là một trong loại hình lao động có hiệu quả nhất quản lý tốt đôi khi còn
mang lại hiệu quả cao hơn đổi mới công nghệ. Kinh tế học quản lý là môn lý thuyết
cơ bản tìm kiếm sự hiểu biết và lý thuyết làm nền tảng cho cả nghiên cứu quá trình
hoạt động cũng nh phân tích các vấn đề ra quyết định kinh doanh.
Kinh tế học quản lý (khoa học quản lý là bộ môn nền tảng mà các nhà quản lý
và nhà nghiên cứu các hoạt động cần phải hiểu rõ nếu họ muốn thành công. Trong
nghiên cứu cần ứng dụng kết hợp các nguyên lý cơ bản của kinh tế học quản lý với
những môn học khác nh xã hội học, tâm lý học, toán học thống kê vào việc quyết
định các vấn đề kinh doanh. Lý thuyết về tổ chức và quản lý đang đợc kết hợp chặt
chẽ với lý thuyết kinh tế để đa ra một cách tiếp cận dễ hiểu hơn cho việc nghiên cứu
hoạt động kinh doanh và cuối cùng trợ giúp việc ra quyết định.
b. Kinh tế học xây dựng
15
Kinh tế học xây dựng là một nhánh của kinh tế học nói chung. Nó nghiên cứu việc
ứng dụng kỹ thuật xây dựng và những kiến thức chuyên sâu về kinh tế học vào quá
trình nghiên cứu hoạt động của công ty xây dựng, quá trình xây dựng và ngành xây
dựng. Để nghiên cứu đợc phạm vi của môn học này, vấn đề trớc hết là phải nắm
vững kinh tế học là gì, sau đó xác định tại sao ngành xây dựng lại xứng đáng là một
nhánh đặc biệt của môn học này.
Nhà kinh tế xây dựng luôn cần đến sự trợ giúp của nhà thiết kế, xây dựng, thống
kê,
tiên lợng và kế toán, đó là những ngời hiểu rõ từng khía cạnh của quá trình xây dựng
hơn nhà kinh tế.
Sự đóng góp của các nhà kinh tế trong các vấn đề của ngành xây dựng cho đến nay
vẫn còn ít và phần nhiều chỉ mới trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô của ngành xây dựng,
cũng nh vị trí của ngành trong nền kinh tế quốc dân và trong kinh tế của công ty.
Thực ra các nhà kinh tế học hoàn toàn có thể đóng góp vào lĩnh vực này vì bản thân nó
có mọi yếu tố về nguồn lực khan hiếm, các cách sử dụng thay thế và một khu vực lựa
chọn rộng rãi.
Trong lĩnh vực xây dựng, kỹ thuật xây dựng hết sức phức tạp với các biến số hầu
nh không có giới hạn, còn vấn đề về thẩm mỹ cũng rất đợc coi trọng. Việc lựa chọn
sử dụng các nguồn lực bị giới hạn còn đợc các nhà xây dựng xem nh là có giới hạn.
Những vấn đề về kinh tế thiết kế hiện nay chủ yếu vẫn do các nhà đo bóc tiên lợng và
quản lý chi phí, kỹ s xây dựng, kỹ s kết cấu và kiến trúc s đảm nhiệm. Vấn đề
kinh tế công trờng có sự trái nguợc với các vấn đề trong kinh tế thiết kế.
1.1.2. Khái niệm về thị trờng và kinh tế thị trờng, kinh tế vĩ mô và vi mô
a. Thị trờng
Thị trờng là một hiện tợng kinh tế phức tạp. Thị trờng là một quá trình thực
hiện các quan hệ trao đổi mua bán, trong đó ngời mua và ngời bán tác động qua lại
với nhau nhằm xác định giá cả và số lợng một mặt hàng nào đó hay sản phẩm cần sản
xuất. Trên thực tế, hiểu theo nghĩa đơn giản tức nghĩa đen thì thị trờng chính là nơi
mua bán hàng hoá.
Theo quan điểm của nhà kinh tế học: Thị trờng là quá trình tổ chức nào đó có liên
quan đến mặt hàng hoá cụ thể, mà trong đó ngời mua và bán hay ngời sản xuất và
ngời tiêu dùng tiến hành tổ chức gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc chặt chẽ với nhau (cọ xát
nhau) và có khả năng xác định đợc giá của hàng hoá đó. Trong cơ chế thị trờng,
ngời tiêu dùng và ngời sản xuất gặp nhau trên thị trờng và giá cả sẽ quyết định khối
lợng hàng hoá sản xuất.
Thị trờng là nơi gặp gỡ ở một thời điểm nhất định giữa cung và cầu của hàng
hoá. Theo nghĩa đầy đủ, thị trờng có thể không có địa điểm nhất định, ví dụ: Thị trờng
tiền tệ, mua bán qua điện thoại hoặc telex, thị trờng mạng...
16
- Tuỳ theo những tiêu thức khác nhau, việc phân loại và phân chia thị trờng cũng có sự
khác nhau. Khi nghiên cứu về chu trình kinh tế, thị trờng đợc phân loại thành ba loại
chính sau đây:
+ Thị trờng của cải và dịch vụ: hàng tiêu dùng và t liệu sản xuất.
+ Thị trờng sức lao động hay thị trờng lao động gồm toàn bộ dân số tích cực.
+ Thị trờng vốn, thị trờng tiền tệ, tài chính và hối đoái.
Để phát triển và điều chỉnh đợc các hoạt động trên thị trờng cần sớm hình thành
và đồng bộ các loại thị trờng, ví dụ nh thị trờng bất động sản, thị trờng chứng
khoán,
thị trờng nhà ở,...
Thị trờng tài chính là thị trờng giao dịch về cổ phiếu và trái phiếu trong đó bao
gồm thị trờng phát hành các cổ phiếu, trái phiếu và thị trờng chứng khoán. Thị trờng
chứng khoán là nơi trao đổi, mua đi bán lại những chứng khoán hay chính là những cổ
phiếu và trái phiếu đã phát hành. Thị trờng chứng khoán hình thành sẽ tạo ra nơi gặp gỡ
trao đổi giữa cung và cầu về vốn dài hạn. Trung tâm hoạt động của loại thị trờng này là
Sở giao dịch chứng khoán. ở nớc ta đã hình thành Trung tâm giao dịch chứng khoán
đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh (7/1998).
- Trong hệ thống thị trờng cái gì cũng có giá của nó. Những quyết định chính về
giá cả và phân phối đều diễn ra trên thị trờng.
- Thị trờng ra đời và tồn tại phát triển khi hội đủ ba yếu tố sau đây:
+ Phải có yếu tố cầu tức là khách hàng. Khách hàng là ngời có nhu cầu về
mặt loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó mà cha đợc đáp ứng.
+ Phải có yếu tố cung tức là phải có sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ đáp ứng
đợc nhu cầu của khách hàng. Chỉ có những sản phẩm hoặc dịch vụ có nhu cầu trong
xã hội mới đợc cung ứng.
+ Khi cung và cầu gặp gỡ nhau sẽ hình thành nên thị trờng và giá cả. Việc cung
cấp sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ theo nhu cầu phải đợc khách hàng chấp nhận trả
giá (bồi hoàn các chi phí). Cung và cầu vốn có quy luật riêng của nó là giá cả hàng hoá
hoặc dịch vụ biến động theo sự thay đổi của cung và cầu...
b. Kinh tế thị trờng
Khi tham gia vào các hoạt động kinh tế trên thị trờng ta thấy: Quá trình hình thành
giá cả diễn ra hàng ngày trên hàng nghìn thị trờng. Để diễn tả tình hình này ngời ta
dùng khái niệm kinh tế thị trờng. Trớc hết, nói đến kinh tế thị trờng là nói đến
việc sử dụng giá cả và lợng tiêu thụ trên thị trờng nhằm dự báo sản lợng mong
muốn hoặc để phân phối các nguồn tài nguyên.
- Kinh tế thị trờng là phơng thứchay phơng tiện để vận hành nền kinh tế có
hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy, kinh tế thị trờng là một phạm trù kinh tế hoạt
động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể
17
hoạt động. Kinh tế thị trờng có sự phát triển từ thấp lên cao. Cơ chế vận hành vốn có
của nền kinh tế này là cơ chế thị trờng. Kinh tế thị trờng là kinh tế pháp chế, đòi hỏi
phải xác lập một thể chế thị trờng phù hợp tạo môi trờng tốt cho sự vận hành của cơ
chế thị trờng.
Kinh tế thị trờng là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là một nền
kinh tế đợc điều chỉnh chủ yếu bởi thị trờng. Trong nền kinh tế này, các quan hệ
kinh tế trong quá trình tái sản xuất đều có giá cả và các giá cả đó đợc hình thành trên
cơ sở quan hệ cung cầu trên thị trờng. Giá cả mua bán đợc thực hiện theo giá cả thị
trờng, các quan hệ kinh tế đợc tiền tệ hoá và diễn ra theo quan hệ cạnh tranh.
- Đặc trng của nền kinh tế thị trờng là mỗi chủ thể kinh doanh đều theo đuổi lợi ích
riêng của mình, sản xuất và mua bán đợc thực hiện tự do cho mọi ngời theo nhu cầu thị
trờng, ngời mua đợc tự do lựa chọn ngời bán. Các doanh nghiệp có quyền tự do
quyết định sản xuất cái gì, nh thế nào, bán cho ai nhằm theo đuổi lợi ích riêng của mình
và thu đợc lợi nhuận tối đa. Một nền kinh tế thị trờng là một cơ chế tinh vi để phối
hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và
thị trờng...
Nét đặc trng cơ bản của nền kinh tế thị trờng là tín hiệu giá cả, một phơng
pháp thông tin có hiệu quả. Giá cả là một phần rất quan trọng để thực hiện các công việc
trong hệ thống kinh tế, nh một cơ chế để cân bằng cung và cầu. Các vấn đề cơ bản về giá
cả đều đợc giải quyết trên thị trờng. Giá cả thị trờng chính là" bàn tay vô hình" điều
khiển các quá trình hoạt động kinh tế.
- Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm của xã hội
sản xuất ra đợc đem trao đổi trên thị trờng. Hàng hoá và thị truờng là các phạm trù
luôn cùng tồn tại. Vì vậy, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá luôn gắn liền với cơ chế thị
trờng. Kinh tế thị trờng bao gồm cơ chế thị trờng và thể chế thị trờng, trong đó cơ
chế thị trờng gồm cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý.
Cơ chế là chỉ nguyên lý hay quan hệ vận hành của thị trờng, là quan hệ khách
quan giữa yếu tố kinh tế thị trờng. Thể chế là chỉ tập hợp các quy tắc quy định của
nhà nớc để điều tiết các quan hệ kinh tế. Theo mục tiêu chiến lợc 2001- 2010, nớc
ta sẽ hình thành về cơ bản thể chế kinh tế thị trờng theo định hớng Xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trờng định hớng Xã hội
chủ nghĩa.
+ Cơ chế thị trờng là tổng thể của các hình thức tổ chức, các nhân tố, quan hệ,
động lực và quy luật vận hành trên thị trờng. Cơ chế thị trờng đợc xem nh một
guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hoá, là phơng thức cơ bản để phân phối và
sử dụng các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động. Cơ chế thị trờng là cơ chế
kinh tế có tính tự điều chỉnh cao, là hệ thống tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, uyển
chuyển. Với tính cạnh tranh cao, nó kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm của các
doanh nghiệp đến sự đổi mới kỹ thuật, công nghệ, quản lý và nhu cầu, thị hiếu của ngời
18
tiêu dùng. Nó có tác dụng sàng lọc, tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý
kinh doanh giỏi.
+ Mặt tiêu cực của cơ chế này là kích thích tự phát vô chính phủ trên thị trờng,
gây nhiều hậu quả mới cho xã hội, dẫn đến sự độc quyền hay liên minh làm thiệt hại
lợi ích của ngời sản xuất lẫn ngời tiêu dùng, làm cho cơ cấu sản xuất mất cân đối,
kinh doanh không ổn định. Từ đầu thế kỷ XX, Nhà nớc đã tham gia, can thiệp ngày
càng nhiều vào nền kinh tế nhằm khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị
trờng. Thực tế đổi mới gần 20 năm qua cho thấy, bên cạnh những tác động tích cực là
cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái của thị trờng gây ra cũng hết sức nghiêm
trọng đặc biệt trên phơng diện t tởng, đạo đức lối sống. Việc thị trờng hoá quá
giới hạn cũng sẽ tạo ra những biểu hiện của chệch hớng Xã hội chủ nghĩa.
- Các quy luật kinh tế chủ yếu hoạt động trong nền kinh tế thị trờng là: Quy luật
cạnh tranh, quy luật lợi nhuận tối đa, quy luật cung- cầu- giá cả, quy luật của thị
trờng vốn và tiền tệ, quy luật chu kỳ suy thoái và hng thịnh kinh tế, quy luật của
ngời mua và ngời bán hàng...
c. Kinh tế vĩ mô và vi mô
Khi nghiên cứu cơ chế thị trờng, các nhà kinh tế chia ra làm hai lĩnh vực để nghiên
cứu là kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô. Thực chất hai lĩnh vực này luôn có quan hệ mật
thiết, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Ngày nay, nghiên cứu kinh tế vĩ mô có tầm
quan trọng đặc biệt với mỗi quốc gia, sự thành công hay thất bại của nền kinh tế của một
quốc gia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động kinh tế vĩ mô.
Kinh tế vĩ mô tập trung quan sát, đề cập đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế
hoặc tổng thể rộng lớn của nền kinh tế còn gọi là sự kiểm soát toàn bộ. Nó quan tâm
đến mục tiêu kinh tế của một quốc gia. Mục tiêu kinh tế của một quốc gia là đảm bảo
đầy đủ việc làm, kiểm soát lạm phát, tăng trởng kinh tế. Kinh tế vĩ mô tập trung vào
nghiên cứu trên quy mô toàn cục với các lĩnh vực quan trọng: Sản lợng, công ăn việc
làm và thất nghiệp, giá cả và lạm phát, chính sách kinh tế đối ngoại của một nớc.
Kinh tế vi mô nghiên cứu cách ứng xử của các "tế bào" của nền kinh tế (các
doanh nghiệp, các hộ gia đình). Ví dụ: Đối với các doanh nghiệp là xác lập mục tiêu
kinh tế; với nguồn lực có hạn họ đạt đợc mục tiêu đó bằng cách nào. Theo Karl schiller
(nguyên là Bộ trởng Cộng hoà liên bang Đức): Chính sách kinh tế hợp lý là cần kiểm
soát toàn bộ và chỉ dành sự kiểm soát vi mô đối với thị trờng. Kinh tế vi mô nghiên
cứu sự vận động của các giá cả cá biệt và những đại lợng khác ở cấp độ tơng tự.
1.2. Những Trào lu t tởng và mô hình
kinh tế thị
trờng hiện đại
1.2.1. Những trào lu t tởng về nền kinh tế thị trờng
Các trào lu t tởng kinh tế xuất hiện chủ yếu ở châu Âu và châu Mỹ với nhiều
trờng phái: Trọng nông, trọng thơng, cổ điển, tân cổ điển đến lý thuyết của
19
Keynes... Nền kinh tế thị trờng của các nớc trên thế giới hiện nay chủ yếu dựa vào
cơ sở của một trong hai t tởng: T tởng cổ điển - tân cổ điển và t tởng của John
Maynard Keynes. Đó là lý thuyết tự do kinh tế và thuyết của Keynes về nền kinh tế
thị trờng. T tởng của Keynes là t tởng mới, thoát khỏi t tởng cổ điển.
a. Nội dung chủ yếu của lý thuyết tự do kinh tế
- Các doanh nghiệp cá nhân phải có thái độ hợp lý về mặt sản xuất và tiêu dùng.
Quy luật vận hành chung của nền kinh tế chính là sự kết hợp giữa các hành động cá
nhân riêng lẻ thông qua các luật của thị trờng. Luật thị trờng đợc coi là "bàn tay vô
hình" nhằm cân đối, điều chỉnh nền kinh tế.
- Theo học thuyết này, Nhà nớc không đợc can thiệp vào mà phải để tự do hành
động. Thị trờng đợc coi là yếu tố động lực của quá trình điều chỉnh kinh tế. Cung và
cầu hàng hoá, lao động và vốn (t bản) sẽ gặp nhau để làm giá cả cân đối: Giá sản
phẩm, tiền lơng, tỷ suất doanh lợi.
Theo học thuyết kinh tế thị trờng tự do mà đại biểu là Adam smith: Thực hiện
một nền kinh tế thị trờng tự do, tôn trọng các lợi ích khách quan để mỗi ngời tự do
theo đuổi lợi ích riêng của mình là cách tốt nhất để phát triển kinh tế.
Học thuyết này cho rằng, thị trờng chính là ngời thực hiện sự phân công lao động
xã hội hợp lý nhất thông qua bàn tay vô hình. Do có bàn tay vô hình của thị trờng mà
bằng cách theo đuổi lợi ích riêng của mình, mỗi ngời thờng củng cố luôn cả lợi ích
xã hội một cách hiệu quả hơn.
- Theo trờng phái tân cổ điển (neso-classique), họ cho rằng cần phải coi trọng giá
trị sử dụng và tác động nó đến giá cả và khối lợng hàng hoá. Ngoài ra, họ nhấn mạnh
đến sự lập luận cận biên, đó là hậu quả sinh ra do đa thêm một đơn vị bổ sung vào
một quá trình có sẵn.
b. Lý thuyết về kinh tế thị trờng theo t tởng của Keynes
Nội dung chính của học thuyết theo trờng phái của Keynes là:
- Vận hành theo cơ chế thị trờng trớc hết phải có tiếp cận kinh tế vĩ mô. Các
hiện tợng kinh tế phải đợc xem xét tổng quát trong khuôn khổ cả nớc.
- Quan niệm về thị trờng: Thị trờng không phải là ngời điều tiết tuyệt đối và duy
nhất của nền kinh tế. Giá cả không phải là khái niệm cân đối giữa cung và cầu mà là
kết quả tính toán dự kiến của các doanh nghiệp. Sự tính toán đó xuất phát từ mong
muốn của các doanh nghiệp nhằm thực hiện sản xuất với một mức lợi nhuận đợc coi
là tạm đủ. Những dự kiến bán ở quy mô cả nớc tạo nên cầu có hiệu quả.
Nh vậy, giá cả không hoàn toàn đợc xác định ở chỗ gặp gỡ giữa cung và cầu mà
giá cả xác lập phải căn cứ vào các loại chi phí t liệu sản xuất, mức tiền lơng và chi
phí đầu t. Cách xác định giá cả chịu ảnh hởng sâu sắc bởi mối quan hệ giữa các
nhân vật chủ yếu của nền kinh tế.
20
- Các nhân vật chủ yếu thờng xuyên tham gia vào hoạt động kinh tế là: Các hộ
gia đình, các doanh nghiệp và Nhà nớc (doanh nghiệp Nhà nớc, tổ chức xã hội thuộc
sở hữu Nhà nuớc). Trong đó, Nhà nớc là nhân vật kinh tế duy nhất có thể điều chỉnh
mức độ của cầu có hiệu quả bằng cách chấp nhận các biện pháp phục hồi nền kinh tế
đợc tạo ra bởi sự thâm hụt ngân sách, gia tăng những chi tiêu công cộng hoặc điều
khiển những tỷ suất doanh lợi. Mô hình phát triển kinh tế theo lý thuyết của Keynes là
mô hình kinh tế với khâu đột phá khởi động cho sự bắt đầu của một quá trình phát triển
kinh tế chính là vai trò của Nhà nớc trong việc kích cầu bằng biện pháp về thuế, lãi suất và
đầu t.
Nhà nớc không chỉ với chức năng bảo vệ, cảnh sát và xét xử mà ngày nay Nhà
nớc còn tham gia hoạt động kinh tế với t cách là ngời sản xuất (các doanh nghiệp
nhà nớc) với t cách trọng tài cho lợi ích chung và cung cấp những dịch vụ tập thể
không mất tiền.
1.2.2. Các mô hình kinh tế thị trờng hiện đại
Theo tổng kết của các nhà kinh tế học, hệ thống kinh tế thế giới đợc phân chia
thành ba mô hình kinh tế lớn: Kinh tế thị trờng tự do, kinh tế thị trờng có điều tiết,
kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung hay mô hình kinh tế hàng hoá tập trung là
mô hình kinh tế kế hoạch hoá quản lý tập trung. Đây là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, toàn diện và đồng bộ với vốn đầu t xây dựng gần nh duy
nhất là của Nhà nớc. Các doanh nghiệp sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh đợc nhà
nớc cung cấp vốn, vật t và bao tiêu sản phẩm.
Mô hình kinh tế kế hoạch hoá có đặc điểm là rất chú trọng đến công tác kế hoạch,
trong đó kế hoạch sản xuất mang tính chất pháp lệnh chỉ tiêu, ngời chỉ huy và đối tác
thực hiện lại là một. Tuy nhiên, kế hoạch và sản xuất hàng hoá lại không căn cứ vào
thị trờng. Theo một số chuyên gia kinh tế, nền kinh tế phát triển theo mô hình này
có thể gọi là kinh tế chỉ huy hay kinh tế mệnh lệnh.
Mô hình kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá cao độ này đã tồn tại trong một giai
đoạn lịch sử ở các nớc Xã hội chủ nghĩa trớc đây cũng nh ở một số nớc trên thế
giới trong thời kỳ khôi phục sau chiến tranh. Sự tập trung hoá cao cùng với sự quan
liêu bao cấp đã làm hạn chế sự cạnh tranh kinh tế và khả năng sáng tạo đổi mới công
nghệ.... Sự trì trệ, kéo dài quá mức thời kỳ này sẽ gây nên hậu quả nghiêm trọng là
làm kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Mô hình kinh tế thị trờng tự do còn gọi là mô hình kinh tế thị trờng thuần tuý.
Mô hình kinh tế thị trờng tự do quan niệm cho rằng chỉ cần tăng cờng những điều kiện
pháp lý nhằm thực hiện những chức năng truyền thống của nhà nớc, khi cần bảo đảm
điều kiện bên ngoài thuận lợi, bảo đảm chế độ pháp lý trong nớc và tạo ra những cơ sở
21
kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên, Nhà nớc không cần phải theo đuổi một chính sách kinh tế
cụ thể nào khác.
Theo phái tự do ở Mỹ, họ đề nghị Nhà nớc chỉ can thiệp ở mức độ tối thiểu và
nói chung là để cho nền kinh tế tự thân vận động. Sự can thiệp của Nhà nớc chủ yếu là
thông qua chính sách thuế và chính sách u đãi về kinh tế nhằm hớng nền kinh tế đi
theo những mục tiêu đã chọn. Chức năng của Nhà nớc là bảo vệ quyền sở hữu t nhân,
quyền lợi của dân tộc nhờ vào lực lợng cảnh sát, quân đội, hệ thống t pháp. Trong nền
kinh tế thị trờng này chỉ yêu cầu nhà nớc đủ mạnh theo kiểu một Nhà nớc cảnh sát
với mức can thiệp của Nhà nớc là rất thấp.
Ngày nay, trên thực tế không còn có thị trờng tự do cạnh tranh mà toàn bộ hoạt
động kinh tế là sự kết hợp giữa nhân tố độc quyền và canh tranh . Nói cách khác, sự cạnh
tranh ở đây là sự cạnh tranh không hoàn hảo. Chính vì vậy, mô hình kinh tế thị trờng tự
do hiện đại đều mang một sắc thái mới với mô hình kinh tế hỗn hợp (theo lý thuyết về
nền kinh tế hỗn hợp mà Samuelson là đại biểu).
Mô hình kinh tế thị trờng có điều tiết là mô hình của nền kinh tế thị trờng hỗn
hợp chủ yếu dựa trên lý thuyết của Keynes. Nó đãcó sự điều chỉnh, thay đổi nhằm khắc
phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trờng tự do (thuần tuý) đã nêu trên. Chính
vì vậy, nền kinh tế thị trờng có điều tiết đang đợc thế giới quan tâm, nghiên cứu và áp
dụng. Theo mô hình kinh tế này, Nhà nớc chuyển dần thành nhà nớc phúc lợi hay còn
gọi là nhà nớc bảo trợ với những cấp độ khác nhau tuỳ từng nớc công nghiệp hoá. Nhà
nớc luôn quan tâm đến vấn đề phúc lợi, công bằng xã hội; giảm sự chênh lệch và phân
hoá giàu nghèo. Tính chất phúc lợi của các nớc Bắc Âu nói chung đậm nét hơn các
nớc Anh, Đức, còn ở Mỹ có phần nhẹ hơn. ở Trung quốc, ngay từ năm 1980 đã tập
trung vào nghiên cứu các mô hình kinh tế thị trờng hiện đại trên thế giới và đã lựa chọn
cho mình một mô hình kinh tế thị trờng là mô hình kinh tế thị trờng Xã hội Chủ nghĩa.
Thực chất của mô hình kinh tế thị trờng có điều tiết là nền kinh tế hỗn hợp vừa vận
hành theo sự điều khiển của bàn tay vô hình vừa chịu sự điều tiết của nhà nớc (đôi khi
còn là sự điều hành, can thiệp). Sự quản lý, điều tiết của nhà nớc với nền kinh tế hàng
hoá là một xu hớng tất yếu trong nền kinh tế thị trờng hiện đại. Nền kinh tế thị trờng
không có khả năng hạn chế xoá bỏ nghèo khổ. Điều này phải nhờ đến sự can thiệp của
nhà nớc và các nỗ lực của xã hội.
Khi nghiên cứu các nền kinh tế thị trờng cho thấy: Ngày nay nền kinh tế của bất kỳ
nớc nào trên thế giới cũng đều mang sắc thái của một nền kinh tế hỗn hợp.
Ví dụ, nền kinh tế hỗn hợp ở Pháp là nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng bản chất của
thị trờng, có sự hỗn hợp giữa cơ thế thị trờng và vai trò quản lý của Nhà nớc. Đây
là nền kinh tế thị trờng hớng nhiều hơn về thị trờng, giảm bớt lôgíc chỉ huy tăng
thêm lôgíc thị trờng, kế hoạch hoá phi tập trung mang tính hớng dẫn, linh hoạt,
mềm dẻo. Nền kinh tế Pháp với ba loại hình doanh nghiệp là: Doanh nghiệp t nhân,
doanh nghiệp Nhà nớc thuộc khu vực cạnh tranh, doanh nghiệp Nhà nớc thuộc khu
22
vực độc quyền Nhà nớc. Bảo hộ xã hội ở Pháp có tính hỗn hợp và quan tâm đến
nhiều mặt, ví dụ nh chính sách quy định tiền lơng tối thiểu cho ngời làm công ăn
lơng, bảo đảm lơng hu tối thiểu 5 nghìn phờrăng tháng cho một cặp hu trí, tiền
lơng hu quy định là 80% mức lơng ròng trung bình.
Mô hình kinh tế thị trờng x hội đợc áp dụng ở CHLB Đức là một ví dụ tiêu biểu
của mô hình kinh tế thị trờng có điều tiết.
Kinh tế thị trờng tự do có mặt hạn chế là phúc lợi xã hội không đợc đảm bảo.
Ngời lao động đợc lĩnh hết tiền công và tự do sử dụng, do đó khi thất nghiệp hoặc
gặp lúc hoạn nạn thì rất khốn đốn. Sự phân hoá giàu nghèo rất mạnh. Theo thống kê
hiện nay, chỉ với 385 nhà tỷ phú giàu nhất thế giới đã nắm trong tay một tài sản khổng
lồ ngang với 2,5 tỷ ngời. Khi mà công nghệ phát triển thì tiền công phải giảm, nhiều
ngời bị thất nghiệp, thu nhập rất thấp làm sức mua ở trong nớc bị giảm sút. Ngời ta
sản xuất không phải cho nội địa mà là nhằm xuất khẩu. Với phân tích nh trên, ngời
Đức đã chọn mô hình Kinh tế thị trờng xã hội với ba trụ cột chính nhằm thể hiện sự
quan tâm sâu sắc đến mặt xã hội của kinh tế:
+ Bảo đảm về sở hữu: Sở hữu và quyền thừa kế sở hữu đợc bảo vệ, nhng sở hữu
kèm theo nghĩa vụ là phải quan tâm và phục vụ lợi ích xã hội.
+ Quyền tự do cá nhân: Tự do hành nghề, tự do phát triển nhân cách, nhng không
làm phơng hại đến ngời khác, không làm hại trật tự chính trị xã hội đã đợc ghi trong
hiến pháp.
+ Bảo đảm phúc lợi xã hội: Để bảo đảm việc làm, thu nhập cho nguời lao động, pháp
luật có quy định trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp và nhà nớc: Các doanh nghiệp
không đợc tuỳ tiện sa thải thợ, công nhân có quyền tham gia kiểm soát doanh nghiệp.
Doanh nghiệp ngoài nghĩa vụ đóng thuế còn phải tham gia đóng góp vào các việc công
ích và nhân đạo. Nhà nớc quy định tiền lơng tối thiểu nhằm bảo đảm mức sống cho
ngời lao động.
Nhà nớc khuyến khích việc chi tiêu tiết kiệm. Nếu công nhân gửi tiền tiết kiệm
trích từ khoản thu nhập thì sẽ đợc Nhà nớc thởng và gộp vào tiền gửi để hởng lãi.
Chú trọng công tác bảo hiểm: Trong số bốn loại bảo hiểm chính có tới ba loại bảo
hiểm bắt buộc là thất nghiệp, y tế và hu trí. Loại bảo hiểm thứ t là bảo hiểm ngời ốm
đau nặng, đại phẫu... Việc lu giữ tiền bảo hiểm, tuy có làm quyền tự do cá nhân bị hạn
chế nhng đời sống ngời lao động đợc bảo đảm.
1.3. Mô hình kinh tế x hội của Việt nam
1.3.1. Đặc trng của mô hình kinh tế xã hội đợc áp dụng tại Việt nam
- Trong công cuộc đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực, Đảng ta khẳng định rõ:
Cần phải kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm đồng thời từng bớc đổi mới chính trị. Trong quá trình đổi mới t duy
phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội.
23
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) với định hớng kinh tế mở, đa thành
phần đề ra đờng lối đổi mới toàn diện. Đại hội VII tiếp tục sung và phát triển đờng
lối đổi mới, thể hiện qua cơng lĩnh, chiến lợc: Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tếxã hội đến năm 2000. Đại hội VIII tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ với
nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, xây dựng nớc ta
thành một nớc công nghiệp vì mục tiêu dân giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, vững bớc tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Từ nay đến năm 2020, chúng ta phấn đấu
đa nớc ta cơ bản thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại. Lao động trên cả
nớc lúc đó phần lớn là lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) đã thông qua chiến lợc
phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 và một lần nữa khẳng định sự quyết tâm nhằm
tạo ra bớc phát triển mới phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam Xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nớc ta chủ chơng
nhất quán lâu dài xây dựng nền kinh tế thị trờng có định hớng: ...Thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý cuả Nhà nớc theo định hớng Xã hội Chủ nghĩa.
Mô hình kinh tế - xã hội đợc áp dụng tại Việt nam có những nét đặc trng riêng
của nó, đó là nền kinh tế thị trờng nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nớc theo định hớng Xã hội chủ nghĩa. Tính đặc thù của nền
kinh tế thị trờng mà chúng ta đang xây dựng so với nền kinh tế thị trờng đang có ở
các nớc T bản chủ nghĩa là sự định hớng Xã hội Chủ nghĩa của nó.
Việt nam chủ trơng thực hiện thể chế kinh tế thị trờng định hớng Xã hội Chủ
nghĩa bằng cách tăng cờng khu vực kinh tế Nhà nớc kinh tế cộng đồng và vai trò điều
tiết của Nhà nớc Xã hội Chủ nghĩa đối với thị trờng để đảm bảo mục đích xã hội.
- Nền kinh tế hàng hoá là một nền kinh tế ở bớc tiến cao hơn và đối lập với nền
kinh tế tự nhiên. Lịch sử phát triển nền kinh tế hàng hoá cho thấy: Lúc sơ khai ban đầu là
giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn, sau đó là giai đoạn kinh tế thị trờng tự do và cuối
cùng là kinh tế thị trờng hiện đại (kinh tế hàng hoá phát triển). Nền kinh tế thị trờng,
bản thân nó là nền kinh tế nhiều thành phần. Thực tiễn chỉ ra rằng, kinh tế hàng hoá là
hình thức kinh tế tồn tại khách quan chừng nào các điều kiện cho sự tồn tại của nó vẫn
còn. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau về
t liệu sản xuất. Nền kinh tế hàng hoá đã có từ rất sớm, hoàn toàn không phải là đặc
trng riêng của Chủ nghĩa t bản.
Nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trờng.
Thật vậy, sản xuất hàng hóa không đối lập với Chủ nghĩa Xã hội. Nó là thành tựu phát
triển của nền văn minh nhân loại, luôn luôn tồn tại khách quan và không chỉ là cần
thiết cho quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội mà cả khi Chủ nghĩa xã hội đã xây dựng
24