Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 98 trang )
38
1.2.1.Nhà hàng dịch vụ đầy đủ
Nhóm ngành này bao gồm các chủ thể chuyên môn cung cấp dịch vụ ăn uống
cho khách hàng đặt món, được phục vụ tại chỗ trong nhà hàng và trả tiền sau khi
dùng bữa. Một số cửa hàng trong nhóm ngành này có thể cung cấp dịch vụ ăn uống
cho khách kèm với các dịch vụ khác như mua đồ ăn mang về hoặc các chương trình
tiết mục biểu diễn trong nhà hàng.
1.2.2.Điểm dịch vụ ăn uống một phần
Nhóm ngành này bao gồm những tổ chức, cá nhân chuyên môn cung cấp dịch
vụ ăn uống, nơi mà khách hàng thường gọi hoặc chọn đồ ăn và trả trước khi ăn. Hầu
hết các nơi này không có người phục vụ, tuy nhiên một số vẫn cung cấp những dịch
vụ một phần như là làm đồ ăn theo yêu cầu, chuyển đồ đến chỗ ngồi của khách
hàng hoặc dịch vụ chuyển đến tận nhà.
Nhóm này có thể được chia nhỏ thành các loại hình: Quán ăn nhanh; Quán café;
Quầy tự phục vụ bữa ăn nhẹ và thức uống không cồn.
1.2.3.Dịch vụ ăn uống đặc biệt
Nhóm ngành này bao gồm những chủ thể cung cấp dịch vụ ăn uống tại một
trong các địa điểm sau: nơi ở của khách hàng; nơi khách yêu cầu; các điểm bán
hàng lưu động. Nhóm này chia thành các loại hình dịch vụ cụ thể sau:
- Nhà cung cấp dịch vụ ăn uống theo hợp đồng: Nhà cung cấp thực hiện dịch vụ
cho các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp sản xuất, công ty thương mại…..trên cơ sở
thỏa thuận bằng hợp đồng trong một thời hạn nhất định.
- Nhà cung cấp dịch vụ ăn uống theo sự kiện: Nhà cung cấp thực hiện dịch vụ
theo sự kiện đơn lẻ như: tiệc cưới, liên hoan cơ quan, hội họp….Các nhà cung
cấp thường có các dụng cụ và phương tiện vận chuyển đồ ăn đến các địa điểm
diễn ra sự kiện và chuẩn bị các món ăn tại đó.
- Các điểm bán hàng lưu động: Người bán hàng chuẩn bị và phục vụ bữa và đồ
ăn nhẹ cho khách hàng ngay tại quầy lưu động như: quầy bán xúc xích, thịt
nướng, quầy kem, bánh kẹp, bắp rang,…
1.3.Đặc điểm ngành dịch vụ ăn uống
39
1.3.1.Đặc điểm chung của ngành dịch vụ
Ngành dịch vụ ăn uống là một bộ phận của khu vực dịch vụ với những đặc điểm
chung sau:
- Tính vô hình: Có thể nói rằng dịch vụ chủ yếu là vô hình, phi vật chất. "Dịch
vụ là cái mà chúng ta có thể mua bán được nhưng không thể rơi xuống chân ta
được.” (Bùi Thị Lý, Đỗ Hương Lan, Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Quang Hiệp, Phan
Minh Hòa, Vũ Thành Toàn, 2009, tr.75). Nếu như hàng hoá hữu hình có dạng
vật chất, thì dịch vụ là một hoạt động mà chúng ta không thể cầm nắm, nếm,
ngửi…, nghĩa là không thể nhận biết được bằng các giác quan thông thường,
không thể nhìn thấy được trước khi có quyết định mua sắm. Chất lượng dịch vụ
tốt hay xấu chỉ khi đã qua sử dụng mới có thể đánh giá được.
Dịch vụ ăn uống được tạo nên từ nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có các yếu
tố vô hình mà khách hàng không thể nhìn thấy được hoặc cảm nhận trước khi
tiêu dùng dịch vụ được như: mùi, vị của món ăn, thái độ phục vụ của nhân viên,
chỉ khi nào tiêu dùng dịch vụ họ mới có thể cảm nhận được các yếu tố đó.
- Tính không tách rời: Dịch vụ là hoạt động của con người, có tính cá thể cao,
gắn chặt với một cá nhân nào đó xác định đồng thời dịch vụ thường là kết quả
của sự tác động qua lại trực tiếp giữa người cung cấp và người tiêu dùng. Do đó
nói tới tính không tách rời của dịch vụ chính là nói tới tính gắn kết giữa quá
trình sản xuất và tiêu thụ dịch vụ. Hai quá trình này cùng diễn ra đồng thời về
cả thời gian và địa điểm. Khi việc cung cấp dịch vụ kết thúc cũng là lúc dịch vụ
được tiêu dùng xong.
Trong kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách hàng trên thực tế sẽ quyết định
việc sản xuất dịch vụ ăn uống. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ăn uống
không thể tạo ra dịch vụ nếu không có đầu vào là khách hàng. Khách hàng vừa
là người tiêu dùng, vừa là người tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất dịch
vụ. Quá trình sản xuất dịch vụ ăn uống không được thực hiện trước khi có sự
xuất hiện của khách hàng.
- Tính không cất trữ được: Đối với dịch vụ về cơ bản quá trình sản xuất và tiêu
dùng gắn liền với nhau. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta không thể mang
dịch vụ đi cất trữ trước khi tiêu dùng hoặc khi không tiêu dùng đến giống như
hàng hoá. Đặc điểm này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ thị trường, sự phù hợp giữa
cung và cầu dịch vụ.
40
Trong kinh doanh dịch vụ ăn uống, tính không cất trữ có thể dẫn đến tính dễ
hư hỏng của sản phẩm, dịch vụ. Do đó, các nhà quản lý cần phải đưa ra các biện
pháp làm phẳng cầu bằng việc sử dụng công cụ giá cả và các công cụ khác
nhằm thu hút khách hàng trong từng thời điểm nhất định.
- Tính không đồng nhất: Sự xuất hiện của yếu tố con người ở đây khó lòng có
thể định một mức chuẩn để đánh giá giống như cách chúng ta so sánh những
hàng hóa hữu hình được sản xuất hàng loạt. Tính không đồng nhất xuất phát từ
2 phía: người cung ứng dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ.
(1) Về phía người cung ứng: Cùng một người cung cấp trong cùng một ngày
có thể cung cấp dịch vụ với chất lượng khác nhau. Điều này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trình độ, mức độ tiếp nhận và lượng thông tin mà người cung
cấp thu nhận được.
(2) Về phía người tiêu dùng: Yêu cầu của mỗi người tiêu dùng dịch vụ khác
nhau. Cùng một món ăn nhưng người này thì cho là ngon, người kia thì cho là
không ngon. Để thoả mãn được cả đối tượng khách hàng này lẫn khách hàng
kia thì người cung ứng phải tự điều chỉnh dịch vụ. Như vậy càng những dịch vụ
mang tính cá nhân cao (tức những dịch vụ đáp ứng như cầu cá nhân của con
người) thì mức độ thay đổi chất lượng hay tính không đồng nhất càng lớn.
Trong dịch vụ ăn uống, khách hàng rất muốn được chăm sóc như là những
con người riêng biệt nên dịch vụ ăn uống thường cá nhân hóa và không đồng
nhất. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ăn uống rất khó đưa ra các tiêu
chuẩn dịch vụ nhằm làm thỏa mãn tất cả khách hầng trong mọi hoàn cảnh vì sự
thỏa mãn đó phụ thuộc vào sự cảm nhận và trông đợi của từng khách hàng.
1.3.2.Đặc điểm riêng của ngành dịch vụ ăn uống
Ngoài những đặc điểm chung của ngành dịch vụ, dịch vụ ăn uống mang 4 đặc
điểm riêng sau:
- Ngành dịch vụ ăn uống đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất của con người: Nhu cầu
ăn uống là nhu cầu cơ bản nhất của con người, nằm trong bậc thứ nhất trong
tháp nhu cầu con người của Maslow. Đó là nhu cầu không thể nào mất đi, trái
lại nó luôn phát triển với những yêu cầu ngày càng cao. Cùng với tốc độ tăng
trưởng của dân số, quy mô của ngành dịch vụ ăn uống cũng lớn lên không
ngừng về số lượng. chất lượng, loại hình, cũng như chiến lược kinh doanh.
41
- Ngành dịch vụ ăn uống kết hợp cung cấp sản phẩm và cung cấp dịch vụ: Khác
với nhiều ngành dịch vụ khác như tài chính, ngân hàng, giải trí,….mục đích của
ngành dịch vụ ăn uống đem lại cho khách hàng những sản phẩm thực phẩm, đồ
uống cũng những tiện ích đi kèm như tiết kiệm thời gian, công sức, có không
gian thư giãn và thưởng thức…..Như vậy, ngoài mục đích cơ bản là cung cấp
bữa ăn cho người tiêu dùng, ngành dịch vụ ăn uống hướng tới việc sử dụng mọi
công cụ, phương tiện để đem lại cho khách hàng một sự kết hợp hoàn hảo giữa
sản phẩm và dịch vụ, tối đa hóa mức độ hài lòng của họ.
- Sản phẩm và dịch vụ mà ngành dịch vụ ăn uống cung cấp có những tác động rõ
ràng nhất đến tất cả các giác quan của con người: Khi tham gia trải nghiệm
dịch vụ ăn uống, khách hàng không chỉ được thỏa mãn về vị giác, khứu giác
thông qua sản phẩm là các món ăn, đồ uống mà các giác quan thính giác, thị
giác, xúc giác cũng được thỏa mãn tối đa thông qua các dịch vụ như: không
gian nền, âm thanh, ánh sáng,…
- Ngành dịch vụ ăn uống là loại hình dịch vụ chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố văn
hóa: Ăn uống gắn liền với văn hóa ẩm thực của mỗi quốc gia. Theo đó, dịch vụ
ăn uống cũng phải hoạt động và phát triển sao cho phù hợp với từng nền văn
hóa. Hơn bất kỳ ngành nào khác, yếu tố văn hóa có tác động rất lớn đến hoạt
động kinh doanh dịch vụ ăn uống, từ cách thiết kế, trang trí của hàng đến cách
thức nấu nướng, sử dụng gia vị,….
2. Đặc trưng sử dụng Marketing giác quan trong kinh doanh dịch vụ ăn uống
2.1.Môi trường vật chất (physical environment) trong ngành kinh doanh dịch vụ
ăn uống.
Đối với ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống, các món ăn và đồ uống đóng vai trò
rất quan trọng, nhưng để thu hút được cả 5 giác quan của khách hàng, để giữ chân
họ thì yếu tố không gian, môi trường vật chất xung quanh của địa điểm cung cấp
dịch vụ ăn uống mới là yếu tố quyết định, đây cũng là yếu tố đặc trưng trong ngành
kinh doanh dịch vụ nói chung, và ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống nói riêng. Vì
vậy, trong phần này, tác giả sẽ tập trung phân tích về ảnh hưởng của môi trường vật
chất đối với khách hàng trong phạm vi ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống.
42
2.1.1.Môi trường vật chất
Kotler, 1973 và Milliman, 1986, tr.13, đã chỉ ra rằng sản phẩm hữu hình thực
chất chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ trải nghiệm tiêu dùng của khách hàng. Địa
điểm nơi mà sản phẩm hay dịch vụ được cung cấp mới là một trong những yếu tố có
ảnh hưởng nhất. Địa điểm, hay cụ thể hơn là bầu không khí (atmosphere) của địa
điểm, có thể tác động lớn đến quá trình đưa ra quyết định của khách hàng hơn là
chính bản thân sản phẩm (món ăn, đồ uống).
Theo khái niệm về “bầu không khí” của Kotler đã nêu trong phần 1.1, chương I,
bầu không khí được xem như là nét đặc trưng của một khối không gian nào đó. Ví
dụ, mỗi nhà hàng có một bầu không khí khác nhau, chúng được tạo nên bởi những
vật thể xung quanh nhà hàng – những thứ khơi gợi lên cảm giác thoải mái cho
khách hàng. Con người cảm nhận bầu không khí thông qua các giác quan. Những
kênh giác quan chính trong một bầu không khí bao gồm: hình ảnh (màu sắc, độ
sáng, kích cỡ, hình khối); âm thanh (âm lượng, cường độ), hương thơm và cảm
nhận (sự mềm mại, sự mượt mà, nhiệt độ) (Kotler, 1973).
Kotler (1973) đã chỉ ra những ảnh hưởng của bầu không khí (cũng chính là môi
trường vật chất) tới hành vi của khách hàng. Hình 2.1 chỉ ra cơ chế hoạt động của
những ảnh hưởng mà môi trường vật chất tác động lên hành vi tiêu dùng, dựa trên
chuỗi nhân quả.
Các tín hiệu
tác động lên
giác quan của
môi trường vật
chất xung
quanh đối
tượng tiêu
dùng
erer
Nhận thức của
khách hàng về
các tín hiệu tác
động lên giác
quan của môi
trường vật chất
Sự nhận thức
của khách hàng
làm thay đổi
thông tin, trạng
thái cảm xúc
của khách hàng
Sự ảnh hưởng
của những thay
đổi về thông
tin, trạng thái
cảm xúc của
khách hàng đến
khả năng mua
hàng
Hình 2.1: Ảnh hưởng của môi trường vật chất lên khả năng mua hàng
(Nguồn: Kotler, 1973)
Có thể minh họa sơ đồ trên bằng một ví dụ sau: Khách hàng đến các nhà hàng
không phải chỉ để ăn uống cho no, họ đến đó vì muốn được cảm thấy sự mới lạ, sự
sang trọng, sự thoải mái, sự kính trọng,…. Đi ăn tại các nhà hàng không còn chỉ là
43
sự thỏa mãn sinh lý thông thường mà nó đã trở thành một trải nghiệm của cảm xúc
thực sự. Công việc của các nhà hàng thực chất là bán những trải nghiệm thú vị chứ
không phải bán những món ăn, đồ uống hữu hình. Trong trường hợp này, môi
trường vật chất được thiết kế với những tín hiệu tác động lên giác quan sẽ cho
khách hàng những cảm nhận tích cực, từ đó thay đổi tư duy, thái độ của họ và cuối
cùng là làm tăng khả năng tiêu dùng của khách hàng.
2.1.2.Mô hình Mehrabian-Russell về ảnh hưởng của môi trường vật chất tới
hành vi con người.
Mehrabia, Russell, 1974; Ressell, Pratt, 1980 đã đưa ra mô hình lý thuyết phân
tích ảnh hưởng của môi trường xung quanh đến hành vi của con người. Sử dụng dây
chuyền “Kích thích - Cảm xúc - Phản ứng”, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối quan
hệ giữa các kích thích của môi trường xung quanh và hành vi của khách hàng.
Kích thích của
môi trường xung
quanh
Trạng thái cảm
xúc: thích thú; kích
thích; thống trị
Phản ứng: tiếp
cận gần hơn
hoặc tránh xa.
Hình 2.2: Mô hình Mehrabian – Russell về ảnh hưởng của môi trường xung
quanh đến hành vi của khách hàng7
(Nguồn: Ruy, 2005, tr. 23)
Theo mô hình này, môi trường xung quanh bao gồm các dấu hiệu kích thích sẽ
tạo ra các phản ứng cảm xúc trong mỗi cá nhân, các phản ứng cảm xúc này sẽ xác
định hành vi của khách hàng: hoặc là muốn tiếp cận gần hơn, hoặc là muốn tránh
xa. Mô hình chỉ ra rằng ba trạng thái cảm xúc cơ bản là sự thích thú, sự khơi gợi,
thống trị, là trung gian giữa hai hành vi tiếp cận và tránh xa của khách hàng. Mô
hình này cũng khẳng định rằng bất kì một môi trường nào cũng sẽ tạo ra trong mỗi
cá nhân một trạng thái cảm xúc thuộc ba trạng thái cảm xúc cơ bản trên.
- Trạng thái cảm xúc thích thú (pleasure): là trạng thái mà các cá nhân cảm thấy
thoải mái, hạnh phúc, dễ chịu, hay vui vẻ8 (Ruy, 2005, tr.42).
7 Tiếng Anh: xem phụ lục 5
8 Pleasure refers to the extent to which individuals feel good, happy, pleased, or joyful in a situation
44
- Trạng thái cảm xúc kích thích (arousal): là trạng thái mà các cá nhân cảm thấy
bị kích thích, hưng phấn, hay hứng khởi9 (Ruy, 2005, tr.42).
- Trạng thái cảm xúc thống trị (dominance): là trạng thái mà các cá nhân cảm
thấy sự chủ động, có thể kiểm soát được một tình huống cụ thể nào đó 10 (Ruy,
2005, tr.42).
Cũng theo Mehrabian và Russell, hành vi muốn tiếp cận hay muốn tránh xa của
khách hàng bao gồm bốn yếu tố:
- Phản ứng của cơ thể đối với môi trường xung quanh: muốn ở lại (tiếp cận) hay
muốn ra khỏi đó (tránh xa). Tại các địa điểm phục vụ ăn uống, yếu tố này thể
hiện ở ý định ban đầu của khách hàng về sự lui tới nhà hàng đó;
- Mong muốn, sẵn sàng tìm hiểu về môi trường xung quanh (tiếp cận) hay không
muốn tương tác với môi trường đó (tránh xa). Tại các địa điểm phục vụ ăn
uống, yếu tố này liên quan đến thiện ý chủ động quan sát xung quanh trước,
trong và sau bữa ăn của khách hàng;
- Mong muốn, sẵn sàng giao tiếp với những người xung quanh tại môi trường đó
(tiếp cận) hay thái độ không muốn tương tác, hoặc phớt lờ sự giao tiếp từ những
người xung quanh (tránh xa). Tại các địa điểm phục vụ ăn uống, yếu tố này liên
quan đến sự tương tác với các nhân viên nhà hàng;
- Dự định tích cực (tiếp cận) hay tiêu cực (tránh xa) đối với môi trường đó. Tại
các địa điểm phục vụ ăn uống, yếu tố này liên quan đến tần suất mà khách hàng
sử dụng dịch vụ của nhà hàng, cũng như là số tiền và thời gian mà khách hàng
chi tiêu tại nhà hàng.
Mô hình Mehrabian – Russell đã chỉ rõ sự tương tác có điều kiện giữa “thích
thú” và “kích thích” trong việc quyết định hành vi tiếp cận – tránh xa của cá nhân.
Theo đó, trạng thái cảm xúc kích thích ảnh hưởng đến sự thích thú của mỗi cá nhân,
từ đó xác định hành vi tiếp cận hay tránh xa của họ. Cụ thể là, trong những môi
trường thân mật, dễ chịu, khi tăng cảm xúc kích thích sẽ làm tăng mong muốn tiếp
cận gần hơn của khách hàng. Ngược lại, trong những môi trường thiếu sự thoải mái,
khi tăng cảm xúc kích thích sẽ càng khiến khách hàng muốn tránh ra khỏi đó.
9 Arousal refers to the degree to which individuals feel stimulated, excited, or active.
10 The dominance dimension relates to the extent to which a person feels influential, in control, or important
45
2.2. Các yếu tố đặc trưng của việc sử dụng Marketing giác quan trong trong
ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống
Như phân tích phần trên, để có thể tạo ra những trạng thái cảm xúc, những hành
vi, hay thái độ tích cực cho khách hàng, thì môi trường vật chất xung quanh cần có
những dấu hiệu kích thích họ. Trong phần này, tác giả sẽ phân tích các yếu tố đặc
trưng thuộc môi trường vật chất được sử dụng để kích thích các giác quan của
khách hàng trong ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống, cụ thể là các nhà hàng phục
vụ ăn uống.
2.2.1.Yếu tố tác động đến thị giác
a, Màu sắc và ánh sáng
Màu sắc và ánh sáng trong không gian nền được dùng để tạo ra sự hấp dẫn và
thu hút sự chú ý của khách hàng. Cũng giống như công cụ thiết kế màu sắc của sản
phẩm đã phân tích trong chương I, mỗi màu sắc khác nhau tạo ra những cảm xúc
khác nhau. Bellizzi (1983) chỉ ra rằng các màu ấm (đỏ, vàng cam, vàng) thường tạo
cảm giác hưng phấn cao, trong khi những màu lạnh (xanh lá cây, xanh lam, tím) tạo
cảm giác êm dịu, thư giãn. Gam màu ấm sẽ thu hút sự chú ý của khách hàng hơn là
gam màu lạnh (Aitamer, Zhou, 2011, tr.15). Vì vậy, đối với bề mặt ngoài địa điểm
dịch vụ ăn uống và các cửa sổ nên sử dụng màu ấm để hấp dẫn khách hàng và kéo
họ vào bên trong cửa hàng.
Các nhà nghiên cứu còn chỉ ra rằng mỗi tầng lớp xã hội khác nhau có sở thích
về màu khác nhau: những màu sáng, nóng thường thu hút thị trường những người
có thu nhập thấp, còn những màu trầm, ấm áp thường thu hút thị trường những
người có thu nhập cao (Marketingprofs, n.d). Màu sắc trong không gian địa điểm ăn
uống được thể hiện ở mọi vị trí, vật dụng trong nhà hàng như: màu tường, màu sàn
nhà, màu bàn ghế, màu khăn ăn,.... Vì vậy, các màu sắc cần được phối hợp sao cho
ăn khớp, và thống nhất theo chủ đề của nhà hàng.
Là một phần của môi trường vật chất, ánh sáng có hai chức năng: (1) truyền tải
một hình ảnh nhất định, (2) giúp cho khách hàng đánh giá sản phẩm (Areni, Kim,
1994). Nghiên cứu của Areni, Kim (1994) chỉ ra rằng, ánh sáng mờ ảo sẽ tạo một
không gian lãng mạn nhưng lại gây khó khăn cho khách hàng khi xem thực đơn. Và
46
trong môi trường ánh sáng mạnh khách hàng cũng dùng nhiều rượu hơn là trong
môi trường ánh sáng mờ ảo (Engbrocks, 2008, tr.16)
Ánh sáng với cường độ chiếu sáng khác nhau cũng có ảnh hưởng không giống
nhau tới hành vi của khách hàng. Một thử nghiệm về ảnh hưởng của ánh sáng được
thực hiện tại nhà hàng Hardee’s (Mỹ) theo đó có hai nhóm khách hàng ngồi ăn tại
hai phòng khác nhau: phòng thứ nhất được chiếu sáng bằng đèn thường, phòng thứ
hai sử dụng nến để thắp sáng. Kết quả cho thấy, nhóm khách hàng ở phòng thứ hai
có thời gian ăn lâu hơn trung bình, nhưng lượng bánh sandwitches mà họ ăn lại ít
hơn. Ánh sáng đèn của phòng thứ nhất đã khiến cho khách hàng ăn nhanh hơn và
nhiều hơn (restauranteers, Dinah, 2010).
b, Thiết kế, bài trí không gian và độ thoải mái
Thiết kế bài trí là phương thức bài trí, trang trí, sắp xếp trang thiết bị, sản phẩm,
đồ đạc, phong cảnh …. trong một không gian nhất định. Cách bài trí và thiết kế
không gian là một trong những nhân tố chủ yếu làm nên thành công của kinh doanh
nhà hàng bởi nó tác động lên thị giác của khách hàng, tạo cảm giác ban đầu về chất
lượng, sự chuyên nghiệp của nhà hàng. Tại khu vực ăn uống, quan tâm nhất là giao
thông đi lại và không gian ngồi. Ví dụ như tại các nhà hàng phục vụ ăn uống, khách
hàng có thể ngồi ăn uống hàng giờ liền, vì vậy chỗ ngồi thoải mái là vấn đề rất quan
trọng tại đây. Kiểu cách ghế ngồi hay khoảng cách giữa các chỗ ngồi đều ảnh
hưởng đến sự thoải mái của khách hàng. Kiểu ghế ngồi dài, cứng, không có phần
tựa lưng hay các ghế ngồi quá gần nhau chắc chắn sẽ tạo cảm giác khó chịu khi ăn
uống. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chỗ ngồi quá gò bó, bàn ghế không được xếp
gọn sẽ gây cho khách hàng cảm giác không tốt về chất lượng phục vụ. Vì vậy,
khoảng cách rộng rãi giữa các chỗ ngồi, đủ chỗ đi xung quanh bàn ăn cho nhân viên
phục vụ sẽ làm giảm cảm giác chật chội, đông đúc về không gian.
2.2.2.Yếu tố tác động đến khứu giác
Cũng giống như âm nhạc, mùi thơm trong không gian nhà hàng đều ảnh hưởng
đến lượng thời gian và số tiền mà khách hàng quyết định chi ra. Ví dụ, mùi hoa oải
hương có tác dụng thư giãn, và có cảm giác hơi buồn ngủ, như vậy sẽ khiến khách
hàng ngồi lại lâu hơn, trong thời gian đó, họ có thể gọi thêm đồ ăn hoặc đồ uống
như rượu, cà phê. Berman, Evans (2007) cho rằng mùi hương sẽ ảnh hưởng tới vị
47
giác của khách hàng. Chẳng hạn như mùi thơm của cà phê mới pha, bánh mỳ
nướng, hương hoa mới cắt có thể làm tăng cảm giác ngon miệng cho khách hàng
(Engbrocks, 2008, tr.16). Ngoài ra, các chủ thể kinh doanh cần chú ý tránh tối đa
những mùi khó chịu rất dễ gặp phải tại các địa điểm cung cấp dịch vụ ăn uống như:
mùi thức ăn từ bếp, mùi cơ thể người, mùi thức ăn thừa trên bàn hoặc sọt rác, mùi
dầu ăn bị ôi,….
Mùi hương có tác động mạnh tới trí nhớ bởi con người có khả năng hồi tưởng
lại những kỉ niệm hoặc trải nghiệm một cách rõ nét nhất dựa trên một mùi hương
nhất định. Kỉ niệm hoặc trải nghiệm đó có thể là về lần cuối cùng sử dụng dịch vụ
tại địa điểm ăn uống nào đó hoặc một kỉ niệm về tuổi thơ. Mùi hương dễ chịu có thể
làm khách hàng tạm quên đi nhận thức về vấn đề thời gian cũng như tác động đến
cảm nhận về thị giác và vị giác. Việc tác động lên khứu giác có thể ảnh hưởng đến
động cơ mua hàng của khách hàng, thậm chí có thể tăng đến 300% doanh số của
một tiệm bánh mỳ (Hirsch, 1991).
2.2.3.Yếu tố tác động thính giác
a, Âm nhạc
Nền nhạc trong nhà hàng có ảnh hưởng đáng kể tới hành vi của khách hàng. Sự
biến đổi nhịp điệu của các bản nhạc sẽ tác động đến khả năng mua hàng, thời gian
ăn uống, tâm lý chờ đợi của khách hàng. Milliman (1986) chỉ ra rằng khi phát nhạc
nhanh, khách hàng ăn nhanh hơn so với khi phát nhạc chậm. Nghiên cứu của
Robaley (1985) còn chứng minh nhạc nhanh hay chậm còn tác động lên số lần nhai
trong một phút và McElrea, Standing (1992) cũng đã chứng minh tốc độ của âm
nhạc ảnh hưởng tới tốc độ uống nước của khách trong các quán ăn hoặc các quán
bar. Milliman (1986) còn chỉ ra rằng tại các nhà hàng ăn uống, nhịp độ của âm nhạc
tuy không ảnh hưởng đến lượng tiền chi tiêu vào thức ăn nhưng lại ảnh hưởng đến
lượng tiền chi tiêu cho các đồ uống. Theo thí nghiệm của Milliman (1986), trong
nền nhạc chậm, các khách hàng trung bình chi nhiều hơn 40% cho đồ uống so với
nền nhạc nhanh. (Caldwell, Hibbert, 1999)
Âm nhạc còn có tác dụng làm giảm những cảm xúc tiêu cực của khách hàng,
đặc biệt là đối với những địa điểm dịch vụ ăn uống mà khách hàng phải chờ đợi.
Hui (1997) chỉ ra rằng âm nhạc không những làm tăng thời gian mà khách hàng có
48
thể chờ đợi mà còn khơi gợi những cảm xúc tích cực (Engbrocks, 2008, tr.15).
Garlin, Owen (2005) cho rằng với thể loại nhạc có tốc độ chậm, âm lượng nhỏ và
quen thuộc sẽ khiến khách hàng ngồi lâu hơn so với thể loại nhạc có tốc độ nhanh,
âm lượng lớn (Aitamer, Zhou, 2011, tr.17)
Ngoài ra, loại nhạc sử dụng trong các nhà hàng phải phù hợp với đối tượng
khách hàng và phù hợp với hình ảnh của nhà hàng. Ví dụ, các quán bar khách hàng
thường là những người trẻ tuổi nên hay sử dụng loại nhạc cường độ nhanh, mạnh.
Trong khi đó, nhạc cổ điển nhẹ nhàng lại rất phù hợp cho các nhà hàng hạng sang.
b, Âm thanh của bếp
Tại một số địa điểm dịch vụ ăn uống, âm thanh nấu và chuẩn bị món ăn phảng
phất tại khu vực ăn uống. Âm thanh của dụng cụ nấu ăn, tiếng xèo xèo của thức ăn,
và thậm chí là tiếng bát đĩa rơi vỡ cũng ảnh hưởng đến trải nghiệm ăn uống của
khách hàng.
2.2.4.Yếu tố tác động vị giác
Trong kinh doanh dịch vụ ăn uống, yếu tố chủ yếu tác động lên vị giác là các
món ăn, đồ uống. Còn xét trong môi trường vật chất xung quanh, âm thanh là yếu tố
tác động lên vị giác, sự ngon miệng của khách hàng.
Theo nghiên cứu của Unilever kết hợp với đại học Manchester về ảnh hưởng
của âm thanh tới vị giác của khách hàng, khi ăn trong không gian âm thanh lớn,
thức ăn có vị dịu hơn, nhạt hơn, và ít ngọt hơn so với không gian âm thanh nhỏ. Tuy
nhiên, trong không gian âm thanh lớn, món ăn lại có vẻ giòn hơn khi ăn vì một cách
vô thức, khách hàng đã đồng nhất âm thanh xung quanh với âm thanh của món ăn
khiến cho âm thanh khi nhai cảm giác lớn hơn (thefoodsection, Friedland, 2010).
2.2.5.Yếu tố tác động xúc giác
a, Chất liệu, kết cấu bề ngoài
Chất liệu của các bề mặt như tường, sàn nhà, ghế ngồi, bàn ăn, dĩa ăn, cốc uống
nước… đều có tác động đến cảm xúc của khách hàng khi họ tiếp xúc trực tiếp bằng
cơ quan xúc giác hoặc gián tiếp thông qua cơ quan thị giác. Ví dụ, nếu tường, sàn
nhà được lát gạch bóng, trơn, cứng có thể sẽ tạo cảm giác rộng hơn, nhưng có vẻ
lạnh lẽo. Nhưng nếu có thêm một vài tấm vải, tấm rèm cửa thì lại có cảm giác ấm