Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 98 trang )
52
ra nét độc đáo riêng, khác biệt hoàn toàn với những cửa hàng khác. Sự độc đáo này
cũng có tác dụng giữ chân khách hàng ngồi lâu hơn, tăng thời gian chờ đợi. Không
chỉ đơn thuần bán những bát phở ngon, mà phở Vuông đã bán những trải nghiệm
giác quan thực sự cho khách hàng. Chính vì vậy mà khách hàng sẵn sàng trả nhiều
tiền hơn cho một bát phở “Vuông” thay vì ăn một bát phở giá rẻ tại các cửa hàng
bình dân – nơi không có những trải nghiệm giác quan này.
Đối với ngành dịch vụ ăn uống, một đặc điểm nổi bật là vừa cung cấp sản phẩm
hữu hình, vừa cung cấp dịch vụ vô hình. Vì vậy, ngoài sử dụng không gian nền để
tác động lên thị giác, thì việc sử dụng poster, panô, thực đơn để thể hiện hình ảnh
của các món ăn, đồ uống tỏ ra cũng là một công cụ hiệu quả kích thích thị giác của
khách hàng, kéo họ đến với cửa hàng. Chuỗi cửa hàng bán đồ ăn nhanh Lotteria
vận dụng công cụ này khá thành công. Ở khắp mọi nơi, trên panô bên ngoài cửa
hàng, trên tờ rơi, trên thực đơn là hình ảnh những chiếc hamburger, những miếng
gà, khoai tây chiên….được trình bày nhiều màu sắc cùng những loại thức uống, đồ
tráng miệng rất ngon mắt.
Hình 2.5: Hình ảnh các món ăn, đồ uống tại chuỗi cửa hàng cung cấp đồ
ăn nhanh Lotteria
(Nguồn: ProGuide, 2011)
Hình ảnh các loại đồ ăn thức uống được trình bày trên nền màu da cam, là màu
có khả năng thu hút sự chú ý và kích thích sự thèm ăn, sự ngon miêng, đồng thời nó
cũng thể hiện sự trẻ trung, năng động, nhiệt huyết – phù hợp với đối tượng khách
hàng mục tiêu là thanh thiếu niên. Mặt khác, màu da cam tạo cảm giác thân thiện
hơn so với màu đỏ, nó cũng không gợi lên vị cay nóng cho món ăn như màu đỏ.
Thêm vào đó là một chút màu xanh của rau tạo cảm giác trung hòa cho sản phẩm.
Những màu sắc này đã thực sự kích thích thị giác, kích thích sự tò mò cho khách
hàng, buộc họ phải mua sản phẩm để được trải nghiệm những gì mà họ đã thấy.
53
1.2.Hoạt động tác động lên khứu giác
Mùi hương kích thích khứu giác trong dịch vụ ăn uống bao gồm: mùi hương
của bản thân sản phẩm (món ăn, đồ uống) và mùi hương của không gian xung
quanh. Đối với các quán café, mùi thơm của café đóng vai trò quan trọng trong việc
thu hút khách hàng. Chuỗi cửa hàng café và đồ ăn nhanh Starbuck đã trở thành một
thương hiệu nổi tiếng khắp thế giới một phần nhờ mùi hương và vị ngon mà nó
mang lại. Khi bước vào cửa hàng Starbuck, khách hàng sẽ cảm nhận ngay được sự
ấm áp khi ngửi thấy mùi hương café khắp không gian cửa hàng. Hơn ai hết, Howard
Schultz – người sáng lập của Starbuck hiểu rõ tầm quan trọng của mùi hương café
đối với sự thành công của thương hiệu. Trước sự bành chướng của thương hiệu như
Mcdonald’s, chính sự linh hoạt trong điều chỉnh mùi hương café đã giúp cho
Starbuck đứng vững trên thị trường. Howard Schultz nhận ra rằng hương vị café sẽ
hấp dẫn hơn khi bột cafe được pha ngay sau vừa mới xay xong, bởi vì bột cafe khi
được xay ra để 1 thời gian sẽ bị nhạt mùi và chất lượng trở nên kém. Do vậy, thay
vì sử dụng café pha sẵn như một số cửa hàng khác, các cửa hàng Starbuck chỉ chứa
hạt café, không xay sẵn ra thành bột. Trước khi pha chế thì nhân viên mới xay các
hạt café ra. Hơn nữa, các hạt café cũng được đựng trong các hũ làm bằng thủy tinh
giúp mùi café không bị phân tán. Nhờ đó mà người thưởng thức café luôn cảm thấy
sự mới lạ trong hương vị café Starbuck – một hương vị mà họ không thể có được
khi đến các cửa hàng khác hoặc tự pha chế ở nhà. Ngoài ra, để tránh làm hỏng mùi
đặc quánh của café, nhân viên của Starbuck không được phép dùng nước hoa hoặc
chất khử mùi. Thậm chí, các cửa hàng Starbuck đã loại bỏ hoàn toàn việc cung cấp
bánh sandwich trứng rán và pho mát kèm theo vì họ nhận ra rằng mùi trứng rán khá
xung khắc với mùi café và làm giảm độ hấp dẫn của café. Quyết định loại bỏ việc
cung cấp một trong những sản phẩm mang lại lợi nhuận chính cho Starbuck đã cho
thấy rằng nhà quản lý của Starbuck đã có nhận thức rất sớm về tạo dựng thương
hiệu thông qua mùi thơm của sản phẩm, và marketing khứu giác đã mang lại thành
công nhất định cho Starbuck trong cuộc chiến với các thương hiệu khác.
Ngày nay, các địa điểm ăn uống không chỉ giới hạn mùi thơm của món ăn, thức
uống trong không gian của nhà hàng mà họ còn tìm cách để đưa hương thơm đó ra
bên ngoài nhằm kích thích khứu giác của người đi đường. Tại Anh, gần các sân vận
54
động và ga tàu điện ngầm, có khá nhiều tiệm bán bánh mỳ, bánh ngọt. Họ phát hiện
ra rằng, khách hàng rất thích mùi bánh mỳ mới ra lò. Vì vậy,để thu hút một lượng
người qua lại rất lớn ở khu vực này, một số cửa hàng đã sử dụng hệ thống ống dẫn,
hoặc trưng bày bánh, hay thậm chí là đặt các lò nướng nhỏ ngay trước cửa hàng
nhằm nhằm khuếch tán mùi hương của bánh ra xung quanh. Điều này không những
giảm bớt mùi thơm quá dày của khu vực ăn uống bên trong cửa hàng mà còn có tác
dụng thu hút người qua đường, khiến họ dừng chân lại trước cửa hàng.
Tại các nhà hàng dịch vụ ăn uống sang trọng, khu vực ăn uống thường được
tách khỏi khu vực bếp để tránh sự lan tỏa của mùi thức ăn. Để khử mùi dầu ăn, mùi
thức ăn lẫn lộn và diệt khuẩn, xua đuổi côn trùng, các nhà hàng thường đặt một số
lọ tinh dầu quế, chanh, ngọc lan tây, hay cúc la mã ở khu vực nhà bếp. Còn ở khu
vực ăn uống, họ có thể sử dụng nến thơm, hoa thơm hoặc các loại tinh dầu đặc
trưng nhằm tạo không gian ấm áp, với hương thơm thoải mái dễ chịu, giảm bớt lo
âu căng thẳng, giúp khách hàng ăn ngon miệng, kích thích cảm giác thèm ăn. Tuy
nhiên, việc sử dụng mùi hương nào cho nhà hàng còn tùy thuộc vào văn hóa, thời
điểm và tính chất của nhà hàng. Ví dụ, các địa điểm ăn uống tại Mỹ thường sử dụng
tinh dầu bạc hà cho không gian nhà hàng vì người Mỹ rất thích mùi bạc hà, nó tạo
cảm giác mát mẻ, thoáng đãng và thoải mái. Tuy nhiên, mùi bạc hà lại không được
sử dụng trong các nhà hàng ăn uống tại Anh, bởi theo văn hóa tại đây mùi này khiến
họ liên tưởng đến mùi vị của thuốc đắng, gây cảm giác không ngon miệng khi ăn.
Có thể thấy rằng, khứu giác ngày càng được các chủ thể kinh doanh dịch vụ ăn
uống quan tâm tới và cùng với sự phát triển của công nghệ, ngày càng nhiều công
cụ hỗ trợ họ trong việc kích thích khứu giác khách hàng. Con người nhớ được 35%
những gì mà họ ngửi, mùi hương tác động rất mạnh tới trí nhớ, tiềm thức của con
người. Do đó, một sự tác động tiêu cực của mùi hương sẽ gây ấn tượng rất xấu cho
khách hàng và như vậy, rất khó để có thể thay đổi được ấn tượng đó khi nó đã ăn
vào tiềm thức của họ. Vì vậy, việc sử dụng các công cụ tác động vào khứu giác như
thế nào đòi hỏi nhà làm marketing không chỉ có kiến thức về tác dụng của các mùi
hương mà còn phải hiểu về tính cách con người, đặc trưng văn hóa – xã hội của
từng vùng miền, và tất nhiên luôn đưa ra những chiêu thức kích thích mới.
55
1.3.Hoạt động tác động lên thính giác
Công cụ chính tác động lên thính giác sử dụng tại các địa điểm kinh doanh dịch
vụ ăn uống là âm nhạc. Hai hình thức chính để đưa âm nhạc vào không gian địa
điểm ăn uống là: nhạc nền mở qua các phương tiện truyền phát (đầu đĩa, TV, radio);
và nhạc sống (nhạc biểu diễn trực tiếp).
Một cách vô thức, âm nhạc đã được đưa vào trong không gian của các địa điểm
phục vụ ăn uống từ khá sớm dưới hình thức nhạc sống. Năm 1866, tại một nhà hàng
Pháp nhỏ ở New York thỉnh thoảng người ta lại thấy một cậu bé đứng kéo violon tại
1 góc nhỏ của nhà hàng. Đến cuối những năm 1890 âm nhạc đã trở nên khá phổ
biến tại các địa điểm ăn uống, và cũng đã có khá nhiều loại nhạc khác nhau ra đời
(Restaurant-ing through history, Whitaker, 2012). Và tại mỗi quốc gia, tùy thuộc
vào văn hóa âm nhạc truyền thống, hình thức nhạc sống tại các địa điểm ăn uống
mang những đặc trưng riêng. Nếu loại nhạc thính phòng được coi là đặc trưng trong
các nhà hàng phương Tây thì tại châu Á, điển hình là Trung Quốc, loại hình nhạc
sống đặc trưng lại một thời thống trị trong các quán trà, quán ăn là nghệ thuật tuồng
được diễn theo lối kết hợp giữa nhạc và kịch. Ngày nay, nhạc sống đã được các nhà
hàng áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Điển hình là các quán café âm nhạc tại đây khách hàng vừa thưởng thức đồ uống, vừa có thể trực tiếp tham gia vào các
chương trình biểu diễn mà nhà hàng cung cấp. Ngoài ra, còn xuất hiện loại hình
quán café chuyên dành cho những người chơi nhạc nghiệp dư. Tại các quán này,
ngoài phục vụ đồ uống, họ còn cung cấp các loại nhạc cụ như piano, guitar, sáo,
violon,….cho khách hàng sử dụng. Đôi khi, các khách hàng tới đây với mục đích
chính là được chơi nhạc, chứ không phải là để uống nước, nhưng tất nhiên, một khi
đã đến đây thì chắc chắn họ sẽ phải uống một thứ nào đó. Thậm chí, doanh số bán
hàng của loại hình dịch vụ này được đánh giá là khá cao vì nó có đặc điểm nổi bật
là khách hàng đến đây thường đi theo nhóm đông, và chính sự nghiệp dư của những
người tham gia biểu diễn khiến họ cảm thấy thoải mái, thân thiện, thú vị hơn. Vì
vậy, thời gian trung bình của một khách hàng ngồi tại quán cũng dài hơn so với các
quán café thông thường khác. Do đó, loại hình này phát triển rất nhanh và rất được
ưa chuộng, đặc biệt là giới trẻ, trong thời gian gần đây.
56
Sự phát triển của công nghệ đã dẫn đến sự thay đổi trong cách thức đưa âm
nhạc vào không gian địa điểm ăn uống. Thay vì sử dụng nhạc sống, một số địa điểm
ăn uống, đặc biệt là các nhà hàng ăn uống, chỉ đơn giản sử dụng các thiết bị kĩ thuật
số để phát nhạc cho không gian nhà hàng. Tùy thuộc vào đặc điểm của từng không
gian, các chủ thể kinh doanh lựa chọn loại nhạc thích hợp. Tại các nhà hàng cao
cấp, nhạc cổ điển không lời được sử dụng chủ yếu. Việc sử dụng các bản nhạc của
Beethoven hay Mozar tại các địa điểm này tạo không khí sang trọng, thư thái cho
khách hàng. Các nhà hàng này cũng nhận thấy rằng, việc sử dụng nhạc cổ điển kích
thích khách hàng chi tiêu nhiều hơn, đặc biệt cho những sản phẩm xa xỉ như café,
rượu khai vị và đồ tráng miệng. Không chỉ đơn giản sử dụng một loại nhạc duy
nhất, các chủ thể kinh doanh còn chú ý đến thời điểm thích hợp cho từng loại nhạc
khác nhau. Ví dụ, cửa hàng bán café cùng các đồ ăn nhẹ Espresso House tại thành
phố Halmstad, Thụy Điển đã sử dụng các loại nhạc khác nhau cho 3 thời điểm khác
nhau trong ngày: buổi sáng và buổi trưa là thời điểm chưa đông khách, cửa hàng sử
dụng loại nhạc chậm, êm dịu làm thư giãn khách hàng, giữ chân họ ở lại lâu hơn và
tiêu nhiều tiền hơn; còn buổi chiều tối là khoảng thời gian cao điểm, cửa hàng sử
dụng loại nhạc với nhịp độ nhanh hơn nhằm giảm lượng thời gian trung bình của
khách tại bàn (Valenti, Riviere, 2008, tr.30). Còn tại nhà hàng dịch vụ ăn uống
Black Tile ở Anh, họ đã sử dụng hệ thống ánh sáng đặc biệt để điều chỉnh ánh sáng
sao cho phù hợp với từng giai điệu của âm nhạc, hay như một số nhà hàng tại
Mexico còn lắp đặt các thiết bị âm thanh nhỏ dưới bàn ăn hoặc ghế ngồi của khách
hàng, điều này làm tăng tính hiệu quả của âm nhạc trong việc kích thích thính giác.
Ngày nay, mỗi cá nhân đều có một chiếc máy vi tính cá nhân hoặc một chiếc
điện thoại di động riêng. Nhận thấy điều này, một cửa hàng của Mc Donald’s tại
Chicago đã đưa vào sử dụng một loại máy phát nhạc cho phép khách hàng thông
qua máy tính hoặc điện thoại di động của mình lựa chọn thể loại nhạc mà họ muốn
được phát trong nhà hàng. Điều này tránh được tình trạng âm nhạc của nhà hàng
không phù hợp với thị hiếu của khách hàng.
Việc lựa chọn loại nhạc nào còn phụ thuộc vào màu sắc của không gian và loại
hình kinh doanh của địa điểm dịch vụ ăn uống. Các quán bar, câu lạc bộ đêm
thường kết hợp những gam màu nóng với những loại nhạc nhịp độ nhanh, âm thanh
57
lớn nhằm tạo ra năng lượng và sự hưng phấn cho khách hàng. Ngược lại, các quán
trà lại thường sử dụng gam màu lạnh kết hợp với những bản nhạc nhẹ nhàng, du
dương nhằm tạo sự thanh tịnh, êm dịu cho không gian.
Ngoài âm nhạc, các chủ thể kinh doanh dịch vụ ăn uống còn rất chú ý đến các
tạp âm trong không gian của nhà hàng như: âm thanh nhà bếp, tiếng bước chân, âm
thanh hệ thống máy lạnh, âm thanh trò chuyện của khách hàng hay các tạp âm từ
bên ngoài vào. Khi tất cả các âm thanh này cùng xuất hiện trong một không gian sẽ
rất dễ gây cảm giác khó chịu, lộn xộn cho khách hàng. Vì vậy, ngay từ khâu thiết kế
các chủ thể kinh doanh dịch vụ ăn uống đã rất chú ý đến các biện pháp nhằm hạn
chế các âm thanh này. Ví dụ, tại các nhà hàng lát sàn bằng gỗ hoặc gạch đá, các
nhân viên được yêu cầu đi giày có gắn đế mềm để tránh gây tiếng ồn và tránh xảy ra
trượt ngã, va chạm. Một biện pháp phổ biến được sử dụng tại các nhà hàng ăn uống
để giảm âm thanh của các tạp âm là lắp các tấm ván làm bằng chất liệu đặc biệt
xung quanh tường và trần nhà có tác dụng hấp thu âm thanh, hay như ở nhà hàng
Quay Restaurant & Bar (Chicago), các bức tường được thiết kế hình gợn sóng cũng
có tác dụng giảm âm lượng của các âm thanh trong nhà hàng. Các biện pháp này
vừa hiệu quả trong việc giảm âm vừa không làm ảnh hưởng tới không gian thẩm mỹ
Hình 2.6: Thiết kế giảm âm thanh của các tạp âm tại nhà hàng dịch vụ ăn uống
(Nguồn: Blast Marketing & PR, 2011)
Như vậy, dưới nhiều hình thức khác nhau, âm nhạc tỏ ra là công cụ hiệu quả
trong việc kích thích thính giác của khách hàng. Không chỉ chú trọng tới các biện
pháp nhằm kích thích thính giác, các địa điểm dịch vụ ăn uống đã có nhận thức về
việc loại bỏ các kích thích tiêu cực tới thính giác, từ đó tăng hiệu quả cho sự ảnh
hưởng của các kích thính tích cực.
58
1.4.Hoạt động tác động lên vị giác
Các món ăn, đồ uống là công cụ chính tác động lên vị giác của khách hàng tại
các địa điểm dịch vụ ăn uống. Chúng tác động đến vị giác thông qua màu sắc và
thành phần của chúng. Các món ăn, đồ uống thường có màu đỏ, vàng cam, vàng,
xanh lục, màu café, vì các màu này có tác dụng kích thích vị giác, làm tăng cảm
giác đói. Có thể thấy rằng, các món ăn thường không có màu xanh lam, tím than và
đen vì theo thói quen, con người cho rằng những màu này có hại cho sức khỏe và dễ
biến chất. Nhìn chung, màu sắc, và thành phần của các món ăn, đồ uống tại mỗi địa
điểm dịch vụ ăn uống phụ thuộc vào khẩu vị của từng khu vực, từng quốc gia. Ví
dụ, ở Trung Quốc, café Starbuck được đưa thêm vị trà xanh vào để phù hợp hơn với
khẩu vị của người Trung Quốc. Ở các nước phương Tây, các món ăn tại tại các nhà
hàng dịch vụ ăn uống thường được rán, xào cùng với bơ để tạo độ ngậy và thơm
cho món ăn vì người phương Tây rất thích các đồ ăn có vị béo, giàu năng lượng.
Ngược lại, người châu Á lại thích các món ăn ít béo và khẩu vị của từng nước cũng
khác nhau. Ví dụ, các món ăn tại nhà hàng Hàn Quốc thường có vị cay, có màu đỏ
và chủ yếu được chế biến từ các loại rau củ. Còn các món ăn tại nhà hàng Nhật Bản
lại khá nhẹ nhàng, thường có màu trắng, ít cay, ít dầu mỡ và thường được chế biến
từ các đồ hải sản.
Sự kết hợp giữa các món ăn và đồ uống tại các địa điểm dịch vụ ăn uống cũng
có tác dụng kích thích vị giác. Tại các nhà hàng cao cấp, khách hàng thường được
phục vụ rượu khai vị trước khi bắt đầu ăn bữa chính, hay thậm chí rượu còn được
cho vào 1 số món ăn nhằm làm tăng sự ngon miệng cho khách hàng. Nếu như trong
các nhà hàng ở các nước phương Tây thường có các quầy bar cung cấp các đồ uống
sau ăn như café, cooktail,… thì các nhà hàng ở các nước châu Á, đặc biệt là Nhật
Bản và Việt Nam, lại thường cung cấp các đồ uống làm từ chè hoặc từ các loại hoa
khác nhau cho khách hàng sau khi ăn.
Kích thích vị giác qua hình ảnh trên thực đơn cũng là cách phổ biến mà các địa
điểm dịch vụ ăn uống hay dùng. Tuy nhiên, thay vì sử dụng thực đơn, việc sử dụng
các đồ ăn giả để trưng bày tại các địa điểm dịch vụ ăn uống đã trở nên khá phổ biến
ở Nhật Bản.