Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.41 KB, 112 trang )
giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm môi trường được ưu tiên. Nhà nước có nhiều chế
độ ưu đãi về thuế, phí, lệ phí, hỗ trợ chi phí đầu vào, hỗ trợ về giá… Điều 24 có
nêu: “Nhà nước chi từ kinh phí bảo vệ môi trường cho việc xây dựng các bộ phim
khoa học về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo
vệ môi trường, sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường”.
Ngoài ra, v qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra quy định bắt
ửa
buộc dán nhãn mác sinh thái trên hàng hóa. Chỉ có khoảng 200 doanh nghiệp, chủ
yếu là doanh nghiệp lớn, áp dụng sản xuất sạch hơn có dùng nhãn mác sinh thái
trong khi có hơn 400.000 doanh nghi vừa và nhỏ gây tác động xấu đến môi
ệp
trường.
Những Quy định, Nghị định trên thực sự là những tín hiệu lạc quan cho thấy
Nhà nước rất quan tâm đ môi trường và sản phẩm thân thiện với môi trường.
ến
Điều này sẽ là gợi ý cho các doanh nghiệp phát triển các sản phẩm thân thiện với
môi trường cũng như cho người tiêu dùng sử dụng nhiều hơn nữa các sản phẩm
xanh này.
2. Triển vọng từ phía các doanh nghiệp
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm đến các vấn đề môi
trường cũng như các sản phẩm thân thiện với môi trường. Cùng với sự hỗ trợ của
nhà nước, sự cố gắng của bản thân mỗi doanh nghiệp, họ đang từng bước cố gắng
để có được chỗ đứng trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực
đang tích cực tìm ra các giải pháp mới cho các sản phẩm của mình. Hàng loạt các
sản phẩm thân thiện với môi trường đã được giới thiệu đến người tiêu dùng, từ các
sản phẩm tiêu dùng, thực phẩm đến các sản phẩm công nghệ, phương tiện giao
thông. Bên c
ạnh các sản phẩm này, đáng chú ý còn phải kể đến tiềm năng của
ngành công nghiệp môi trường.
Hiện nay, Bộ Công thương đang hoàn thiện đề án: “Phát triển ngành công
nghiệp công nghiệp môi trường Việt Nam”. Theo dự thảo đề án, đến năm 2015 sẽ
hoàn thiện quy hoạch phát triển công nghiệp môi trường, xây dựng cơ chế, chính
sách đẩy mạnh phát triển công nghiệp môi trường. Phát triển các hoạt động nghiên
cứu, tư vấn, dịch vự chế tạo thiết bị môi trường đáp ứng cơ bản nhu cầu bảo vệ môi
78
trường, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên trong những lĩnh vực không đòi
hỏi công nghệ cao; tiếp cận, áp dụng công nghệ cao để xử lý chất thải nguy hại, khí
thải… Đến năm 2020, ngành công nghiệp môi trường sẽ trở thành ngành kinh t
ế
quan trọng, đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường trong nước, tạo bước chuyển biến
vững chắc và toàn diện trong công tác bảo vệ môi trường. Sau khi lấy ý kiến của các
Bộ, ngành, dự thảo đề án sẽ được hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt vào Quý I năm 2009.
Theo kết quả “Điều tra hiện trạng ngành công nghiệp môi trường, đề xuất
giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam” do Viện
nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp thực hiện, tổng nhu cầu bảo vệ môi
trường và 18 ngành lĩnh vực hiện nay khoảng 124.310 tỷ đồng, tương đương 7,6 tỷ
USD, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: xây dựng các công trình xử lý nước thải,
lắp đặt hệ thống xử lý nước thải, khí thải, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn
và các giải pháp về tiết kiệm năng lượng; đào tạo cán bộ chuyên trách về quản lý
môi trường, áp dụng các giải pháp về tiết kiệm năng lượng, tái sử dụng, tái chế thu
hồi các phế phu liệu, áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000… Ngoài các
nhu cầu trên, một số ngành công nghiệp như dầu khí, hóa chất, khoáng sản còn có
thêm nhu cầu xử lý các chất thải đặc thù…
Như vậy, khai thác được các thế mạnh của ngành công nghiệp môi trường,
các doanh nghi p sẽ có được lợi nhuận dự báo là siêu màu mỡ từ ngành công
ệ
nghiệp này.
3. Triển vọng từ phía người tiêu dùng
Theo một nghiên cứu gần đây của Green Seal, một tổ chức cấp giấy chứng
nhận phi lợi nhuận độc lập, và Enviro Media Social Marketing, 4 trong 5 người cho
biết họ vẫn đang mua những sản phẩm và dịch vụ xanh, ngay cả khi nền kinh tế Hoa
Kỳ đang suy thoái.
Mặc dù những sản phẩm này, được tuyên bố là thân thiện với môi trường,
thường có giá thành đắt hơn, nhưng một nửa trong số 1000 người tham gia cuộc
khảo sát cho biết số lượng sản phẩm xanh họ mua tương đương với trước khi khủng
hoảng kinh tế. Thêm vào đó, 19% cho biết họ mua nhiều sản phẩm xanh hơn, và
79
14% ít mua hơn. Nghiênứu này cho thấy con người muốn hành động vì môi
c
trường, nhưng những hành động đó phải thuận tiện và dễ dàng. Các công ty nên
công bố rõ ràng những lợi ích môi trường của sản phẩm và dịch vụ của mình, và
đảm bảo rằng những gì họ tuyên bố trên quảng cáo ti vi phải được hỗ trợ trên bao bì
và trên trang web.
Còn ở nước ta, cũng theo bản khảo sát của tôi thì kết quả cho thấy người tiêu
dùng thực sự quan tâm đến sản phẩm thân thiện với môi trường. 57% số người được
hỏi sẵn sàng thay đổi những thói quen xấu để tiêu dùng bền vững hơn, 39% sẽ thay
đổi nếu phù hợp, Chỉ có 4% là không thay đổi. 37% số người được hỏi cũng cho
rằng khi mua một sản phẩm, họ sẵn sàng đặt lợi ích môi trường lên trên lợi ích cá
nhân, 46% số người được hỏi phải cân nhắc tùy từng sản phẩm. Với các sản phẩm
được dán nhãn sinh thái. Mặc dù có đến 84% chưa biết về các sản phẩm được dán
nhãn sinh thái nhưng 39% số người được hỏi tùy từng sản phẩm sẽ trả giá cao hơn
các sản phẩm cùng loại. Trong khi đó, 39% s n sàng trả giá cao hơn cho các s
ẵ
ản
phẩm được dán nhãn sinh thái.
Rõ ràng, ng tiêu dùng đã có những nhìn nhận rất khả quan về các sản
ười
phẩm thân thiện với môi trường. Họ biết rằng môi trường sống hiện nay đang cực
kỳ ô nhiễm, các sản phẩm tiêu dùng cũng đang xuống cấp trầm trọng. Các sản phẩm
như sữa, nước tương… trong thời gian qua đã khiến rất nhiều người lo ngại. Họ
mong chờ vào các doanh nghiệp sẽ có những sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe cũng
như tốt hơn cho môi trường.
II. KINH NGHIỆM SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG SẢN PHẨM THÂN THIỆN
VỚI MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI
Sản xuất và tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường trên thế giới đã
phổ biến từ rất lâu, nhất là tại các nước phát triển. Khoa học công nghệ phát triển,
cùng với nhận thức của người dân về vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường đã
khiến cho các sản phẩm thân thiện với môi trường luôn luôn được chào đón. Ở mọi
lĩnh vực, sản phẩm thân thiện với môi trường đều có mặt, điển hình là năng lượng,
giao thông và công nghệ cao như điện thoại, laptop… Cũng ở bất kỳ lĩnh vực nào,
quy trình sản xuất đều được các nước áp dụng triệt để để có được những sản phẩm
80
thân thiện với môi trường nhất. Trong phần này, tôi xin đưa ra kinh nghiệm của một
số quốc gia trong các vấn đề về tìm kiếm nguồn năng lượng mới, về mua sắm xanh
và nhãn sinh thái. Đây là những vấn đề khá mới ở nước ta.
1. Khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo
Một trong những phương cách đầy triển vọng có thể giải quyết được những
nhiệm vụ của chiến lược phát triển bền vững là thiết lập cơ chế hữu hiệu, khuyến
khích sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo. Cơ chế này được hình thành ở các
nước công nghiệp phát triển vào những năm 1970. Chính phủ các nước phải can
thiệp vào ngành năng lượng mạnh hơn về phương diện đa dạng hóa nguồn cung cấp
năng lượng và nâng cao tính tự chủ về năng lượng cũng như về kiểm soát sự tiêu
thụ. Chính trong giai đoạn đó, năng lượng tái tạo bắt đầu được sử dụng tích cực
hơn. Các nhà sản xuất và người tiêu thụ năng lượng “sạch” được nhà nước dành cho
những ưu đãi như tài trợ và cấp tín dụng với mức lãi suất thấp, bảo lãnh tiền vay
ngân hàng, xác l p giá cố định mua điện năng được sản xuất bằng năng lượng tái
ậ
tạo, cấp tài chính cho các công tác nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực năng
lượng phi truyền thống… Hiện nhiều nước trên thế giới có biện pháp trợ giúp hữu
hiệu của nhà nước đối với ngành năng lượng phi truyền thống là các hợp đồng dài
hạn (từ 15 đến 30 năm) mua điện theo giá cố định (thường cao hơn giá thị trường)
của các công ty nhỏ sản xuất điện năng bằng các nguồn năng lượng tái tạo.
Tại Mỹ, năm 1992 nước này đã thông qua Luật về chính sách năng lượng,
trong đó quy đ ưu đãi thuế cố định là 10% đối với vốn đầu tư cho thiết bị sử
ịnh
dụng năng lượng mặt trời và địa nhiệt. Bằng cách đó đã tạo được cơ sở để các nhà
máy điện sử dụng năng lượng truyền thống và các nguồn năng lượng tái tạo. Trong
những năm gần đây, chương trình “Gió cung cấp năng lượng cho Mỹ” đã được đưa
vào thực hiện với nguồn trợ cấp hàng năm của Bộ Năng lượng Mỹ là 33 triệu USD.
Mỹ còn là một trong những quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực sử dụng năng lượng
mặt trời với mục đích thương mại. Trong 20 năm qua, Mỹ đã chi hơn 1,4 tỷ USD
cho việc nghiên cứu triển khai các công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời để sản
xuất điện. Hiện nay, trên 10.000 ngôi nhà ở Mỹ sử dụng hoàn toàn năng lượng mặt
trời.
81
2. Kinh nghiêm các nước về mua sắm xanh
Hiện nay đã có rất nhiều nước trên thế giới ban hành văn bản pháp quy về
mua sắm xanh. Tại các nước phát triển như Mỹ, Nhật và một số quốc gia châu Âu,
nhiều công ty còn ban hành quy định và hướng dẫn riêng về mua sắm xanh đối với
các nguyên liệu, thiết bị sản xuất và thiết bị văn phòng. Mạng lưới mua sắm xanh
quốc tế (IGPN) đã được thành lập nhằm thúc đẩy mua sắm xanh trên toàn cầu bằng
cách liên kết các tổ chức thực hiện mua sắm xanh vì mục tiêu sản xuất và tiêu dùng
bền vững.
Trung Quốc
Hiện nay Trung Quốc chưa ban hành “Luật mua sắm xanh”, tuy nhiên tại
Điều 9 của Luật Mua sắm công có quy định “Mua sắm công cần thiết hỗ trợ nền
kinh tế quốc gia và các mục tiêu phát triển xã hội, kể cả bảo vệ môi trường, hỗ trợ
các khu vực thiểu số và kém phát triển, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
nhỏ…”. Ý nghĩa của bảo vệ môi trường trong điều luật trên được giải thích là “Mua
sắm công cần phải hỗ trợ cải thiện môi trường trong quá trình sản xuất và Chính
phủ cần phải mua sắm các sản phẩm phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường”.
Chính phủ Trung Quốc đang thực hiện dự án” Xây dựng xã hội thân thiện
môi trường” như một nội dung quan trọng của Kế hoạch 5 năm lần thứ 11, trong đó
sẽ ban hành một loạt các chính sách thúc đẩy mua sắm xanh. Chính phủ đã ban
hành một số chỉ đạo về “Thúc đẩy phát triển nền kinh tế tái sử dụng” vào năm 2005,
trong đó mục 5 nêu rõ “Về tiêu dùng, cần khuyến khích các phương pháp mới nhằm
tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, tăng cường sử dụng các sản phẩm được
dán nhãn tiết kiệm nước, nhãn tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả, nhãn môi
trường, nhãn thực phẩm xanh và thực phẩm hữu cơ xanh, giảm sử dụng các sản
phẩm dùng nhiều bao bì và sản phẩm chỉ dùng 1 lần. Tất cả các cơ quan Chính phủ
đều phải thực hiện mua sắm xanh”.
82
Bảng 7: Kinh nghiệm xây dựng và thực hiện chính sách mua sắm xanh của
Trung Quốc và một số nước ASEAN
Hiệu suất sử dụng
tài nguyên
Không ộc hại, dễ Nguyên liệu tái sinh, Tiêu th ít nước và
đ
ụ
Lựa chọn các phân h y sinh học, tái sử dụng, tái tạo
ủ
năng lư ng, có sử
ợ
nguyên liệu nguồn gốc sinh thái
dụng nguyên liệu tái
sinh
Sử dụng nhiên liệu Chi phí qun lý và Sử dụng nguyên liệu
ả
không có ngun gốc hành chính
ồ
tại chỗ, nếu cần thì
Vận chuyển dầu mỏ, sản xuất tại
vận chuyển bằng
chỗ
đường sắt hoặc
thuyền tải trọng lớn
Áp d
ụng công nghệ Hệ thống quản lý Giảm thiểu chất thải
tốt nhất có thể (BAT), môi trường, tuân thủ
Sản xuất
cải tiến liên tục
tiêu chu môi
ẩn
trường
Không đóng gói ho
ặc Không đòi hỏi quản Bao bì ỏng, sử
m
Đóng gói
đóng gói b
ằng bao bì lý đặc biệt
dụng vật liệu tái chế
có thể tái sử dụng
Dễ sửa chữa, có thể Tuổi thọ cao, bền, Nhu cầu năng lượng
Sử dụng sản tái ửs dụng, chất
có thể tái sử dụng
thấp, dễ vận hành,
phẩm
lượng tốt, an toàn,
đạt hiệu quả cao
không ô nhiễm
Tái sử dụng, ít sự cố
Dễ phân hủy (không Sử dụng được nhiều
Kết thúc
cần thiết theo dõi, loại nhiên liệu
vòng đời
quản lý trong thời
gian dài)
Nguồn: www.nea.gov.vn
Sản
phẩm/dịch vụ
Ngăn ngừa ô nhiễm
Vòng đời
Các nước ASEAN
Hiện nay, các nước ASEAN chưa ban hành luật riêng về mua sắm xanh, tuy
nhiên Chính phủ nhiều nước đã có chính sách khuyến khích, thúc đẩy phát triển tiêu
dùng bền vững và nền kinh tế tái sử dụng. Bước khởi động của việc phát triển mua
sắm xanh là thực hiện 3R: tái sử dụng (reuse), giảm thiểu (reduce), tái chế (recycle)
và dán nhãn sinh thái.Ở Malaixia, việc tái chế mới chỉ tập trung vào 4 đối tượng:
giấy, thủy tinh, nhôm và nhựa. Việc phân loại rác thải được thực hiện tại nguồn:
thủy tinh gom vào thùng nâu, nhôm và nhựa vào thùng da cam, giấy vào thùng
83
xanh. Malaixia đã thực hiện dán nhãn sinh thái đối với 4 loại sản phẩm: bao bì bằng
chất dẻo không độc và dễ phân hủy, chất tẩy rửa dễ phân hủy, thiết bị điện tử và
điện dân dụng không có các chất nguy hại, giấy tái chế.
Indonexia đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng nền kinh tế tái sử dụng,
tuy nhiên chưa có phương th thu gom chất thải và tái chế một cách hệ thống và
ức
chính quy, thường chỉ thông qua đội quân nhặt rác (chủ yếu là nhôm) ở các bãi rác.
Chính phủ Indonexia đã thực hiện dán nhãn sinh thái cho 3 loại sản phẩm là giấy in
báo, bột giặt, hàng dệt may.
Chính phủ Philipin đã ban hành các chính sách liên quan đến tái chế, dán
nhãn sinh thái, giảm thiểu chất thải, bảo tồn thiên nhiên.
Ở Thái Lan có chính sách tái chế, giảm thiểu chất thải, hệ thống nhãn xanh và
nhãn sinh thái. H thống nhãn xanh được “Hội đồng doanh nhân Thái Lan vì sự
ệ
phát triển bền vững” khởi xướng từ năm 1993, sau đó được Bộ Công nghiệp và
Viện Môi trường phối hợp phát động vào tháng 8/1994. Năm 2005, Chính phủ ban
hành chính sách yêu c u các cơ quan Chính phủ đi đầu trong việc thực hiện mua
ầ
sắm xanh và giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chịu trách nhiệm
ban hành các cơ chế thực hiện chính sách này. Cục kiểm soát ô nhiễm Thái Lan đã
tiến hành các nghiên cứu xây dựng các tiêu chí về sản phẩm xanh, trước mắt đối với
5 loại hình sản phẩm và 2 loại hình dịch vụ.
Singapo đã thực hiện dán nhãn sinh thái cho cá c thiết bị điện, khuyến khích
sử dụng xe cộ xanh và nhãn xanh. Một số sáng kiến được thực hiện ở Singapo là kế
hoạch xanh (Chính phủ ưu đãi thuế đối với các ngành công nghiệp tham gia hệ
thống tái chế), hệ thống nhãn xanh đối với 32 loại sản phẩm, giảm thuế đối với các
nhà sản xuất hoặc nhập khẩu xe cộ thân thiện môi trường.
3. Kinh nghiệm về việc xây dựng và quản lý chương trình nhãn sinh thái
Dán nhãn sinh thái là một chương trình lớn có sự tham gia của cả Nhà nước,
doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong đó, nhà nước có vai trò lớn trong việc xây
dựng và thực hiện chương trình nhãn sinh thái. Vai trò của nhà nước tại các chương
trình có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong trường hợp gián tiếp, nhà nước đưa ra
định hướng, chiến lược, thực hiện công tác đối ngoại như tham gia vào các tổ chức,
84