Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.41 KB, 112 trang )
hậu quả tiêu cực về môi trường, xã hội và kinh tế. Mục đích cuối cùng của tiêu dùng
bền vững là cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của cả người tiêu dùng thế hệ
hiện nay và các thế hệ mai sau, đồng thời giảm thiểu tác động tới môi trường.
1.2. Tầm quan trọng của tiêu dùng bền vững
Tiêu dùng là đặc điểm trung tâm của xã hội. Khi nền kinh tế được cải thiện,
cá nhân cũng như Chính phủ, công ty và tổ ch ức cũng gia tăng việc tiêu dùng sản
phẩm và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của họ như lương thực, ăn mặc, giao thông,
giáo dục, y tế và giải trí vui chơi. Tiêu dùng tăng còn góp phần làm tăng trưởng
kinh tế, thường là một tiêu chí mà các Chính phủ sử dụng để đánh giá sự thành công
của họ. Song, tiêu dùng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp là nguồn gốc của hầu hết các
vấn đề môi trường gây nên bởi hoạt động của con người cũng như tạo ra nhiều vấn
đề cho xã hội và tài chính.
Tiêu dùng tăng đ i hỏi tăng sản xuất và thư ờng dẫn đến việc sử dụng tài
ò
nguyên tăng lên, gây ô nhi môi trường và phát sinh chất thải. Thậm chí nếu có
ễm
thể kiểm soát và tăng hiệu suất các quy trình sản xuất, thì những vấn đề trên cũng
không thể giải quyết một cách hiệu quả, nếu không giải quyết vấn đề tiêu dùng liên
tục tăng. Nhiều vấn đề điển hình về xã hội và tài chính khác cũng do việc tăng tiêu
dùng gây ra. Nh
ững cá nhân có mức tiêu dùng cao thường gặp phải gánh nặng chi
phí như m nợ, thời gian và sự căng thẳng làm việc để đảm bảo tiêu dùng, t hời
ắc
gian cần có để bảo quản, làm sạch, nâng cấp tài sản, đó là cách tiêu dùng làm mất
thời gian dành cho gia đình và bạn bè.
Vì vậy, tiêu dùng bền vững là chìa khóa cho phép xã hội và cá nhân phát
triển mà không nhất thiết phải hy sinh chất lượng cuộc sống hoặc các yếu tố phát
triển bền vững.
Thông thường, tiêu dùng bền vững hay được hiểu nhầm là công cụ nhằm vào
việc giảm tiêu thụ quá mức ở các nước phát triển. Mục đích thật sự của tiêu dùng
bền vững là để phát triển các cơ hội tiêu dùng cho phép mọi người thỏa mãn được
nhu cầu của mình, song không phát sinh những hậu quả tiêu cực với môi trường, xã
hội và tài chính. Nhu cầu thúc đẩy tiêu dùng bền vững đã rõ rệt từ lâu ở hầu hết các
nước phát triển. Song, các nước đang phát triển với khuynh hướng đi theo con
5
đường của nước phát triển vẫn có cơ hội để tránh nhiều sai lầm liên quan tới tiêu
dùng bằng cách giải quyết các vấn đề tiêu dùng của họ ngay từ bây giờ.
Chẳng hạn ở châu Á, dân số đông và tăng nhanh. Qu dân số Liên Hiệp
ỹ
Quốc UNFPA dự tính dân số thế giới sẽ tăng 41% khoảng 8,9 tỷ người vào năm
2050, phần lớn sự gia tăng này diễn ra ở các nước đang phát triển ở châu Á. Nền
kinh tế châu Á cũng tăng trưởng nhanh, nhiều thị trường mở cửa chịu ảnh hưởng do
buôn bán quốc tế, tỷ lệ đô thị hóa tăng cùng với tuổi thọ của người dân cũng tăng.
Vùng châu Á – Thái Bình Dương là nơi có 684 tri người tiêu dùng có thu nhập
ệu
trung bình trên 7000USD/ ầu người. Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonexia
đ
chiếm 63% nhóm người tiêu dùng này trong vùng và 25% toàn thế giới. Ngày nay,
chỉ 25% dân số trong khu vực được xếp vào loại mức thu nhập trung bình cá nhân
cao đó [6, tr.5]. Như vậy, hình thái sẽ là con số này tăng nếu kinh tế tiếp tục tăng
trưởng.
Đồng thời ở các nước phát triển vốn có mức tiêu thụ tính theo đầu người cao
quá mức, đã xuất hiện yêu cầu giảm mức tiêu thụ đó xuống, đạt độ bền vững hơn.
Như vậy, tiêu dùng bền vững gắn liền với các nước phát triển lẫn các nước đang
phát triển, tuy họ tiếp cận vấn đề từ những hướng khác nhau. Vì vậy nhu cầu đạt
đến sự tiêu dùng bền vững có tầm quan trọng với tất cả các nước, mọi người dân, cả
giàu lẫn nghèo.
1.3. Những vấn đề chính trong việc thúc đẩy tiêu dùng bền vững
Dự án SC.Asia (Tiêu dùng bền vững châu Á) đã xác định một số vấn đề chủ
yếu có thể làm nền tảng cho sự thành công của bất cứ chương trình tiêu thụ bền
vững nào. Đó là các vấn đề về trình độ nhận thức, vai trò của Chính phủ, ưu tiên
khác của quốc gia, và tiếp cận vốn với người mua [6, tr.14].
Thứ nhất, cần nhận biết rằng tiêu dùng (bền vững) không những là một vấn
đề kinh tế kỹ thuật mà còn có nguồn gốc sâu xa trong bối cảnh xã hội văn hóa. Vì
vậy, có thể tiếp cận tiêu dùng bền vững như là một cơ hội để phát triển hoặc bảo vệ
các giá trị khác trong xã hội. Những cơ hội dưới dạng thiết lập thị trường và công
việc trong những lĩnh vực sử dụng/tận dụng tri thức truyền thống (du lịch và sản
6
xuất lương thực theo phương thức truyền thống) và cách sống truyền thống có thể
được phát huy để bảo đảm tiêu dùng bền vững.
Thứ hai, bằng việc lồng ghép các hoạt động tiêu dùng bền vững vào trong
các khuôn khổ hiện hành sẽ dễ đạt được kết quả hơn (và tránh trải rộng quá mỏng
nguồn tài nguyên có sẵn). Quản lý chất thải, an toàn lương thực và giao thông là ba
ví dụ về các lĩnh vực có độ ưu tiên cao trong phần lớn các nước mà các chương
trình tiêu dùng bền vững có thể dễ dàng lồng ghép vào.
Thứ ba, sự hiểu biết về tiêu dùng bền vững nói chung rất hạn chế và ý nghĩa
cụ thể của khái niệm này chưa được hiểu một cách đầy đủ. Đó là sự thật đối với
Chính phủ cũng như các thành phần xã hội liên quan khác. Vì vậy , các hoạt động
tiêu dùng bền vững cần có một chiến lược truyền thông kỹ lưỡng. Mở rộng mạng
lưới các đối tác cũng sẽ cho phép phổ biến nhanh hơn các ý tưởng và thúc đầy việc
truyền bá các quan điểm tiêu dùng bền vững.
Thứ tư, Chính phủ có vai trò kép, vừa là người điều chỉnh, khởi xướng vừa là
người tiêu dùng chính. Trong vai trò người điều chỉnh, khởi xướng truyền thống,
Chính phủ có thể thiết lập những chính sách và điều kiện kinh tế xã hội phù hợp cho
người tiêu dùng, người sản xuất và những người khác để thực hiện theo hướng bền
vững hơn. Là người tiêu dùng chính, Chính phủ có thể thông qua các quyết định
mua sắm của họ, ủng hộ một số loại hàng hóa và dịch vụ và cũng có thể tạo ra một
thị trường mới cho các sản phẩm bền vững. Cần luôn luôn nhớ tầm quan trọng của
việc có một cơ quan trong Chính phủ, để điều phối các dự án và chính sách quốc gia
về tiêu dùng bền vững.
Thứ năm, vạch ra các giá trị trong tiêu dùng bền vững là có tính quyết định
và phải đưa các đối tác chính, cụ thể là những người tiêu dùng, Chính ph các tổ
ủ,
chức và các ngành dân sự vào. Nếu các đối tác không tham gia trong phong trào tiêu
dùng bền vững, tất sẽ rất khó khăn để thiết lập các ưu tiên thích hợp và thực hiện
các hành động. Ngay cả phong trào người tiêu dùng không phả i lúc nào c
ũng biết
được chương trình của tiêu dùng bền vững. Các tổ chức người tiêu dùng ở châu Á
coi quyền của người tiêu dùng và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng là một ưu tiên và vì
7
vậy việc thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức về tiêu dùng bền vững ngày
càng trở nên tích cực hơn.
Thực hiện được các vấn đề này chắc chắn các quốc gia sẽ thúc đẩy được tiêu
dùng bền vững trên mọi lĩnh vực và tác động được đến mọi người dân.
1.4. Các công cụ tiêu dùng bền vững
Thúc đẩy và chấp nhận cách tiêu dùng bền vững là điều thiết yếu, nếu chúng
ta muốn đạt tiến bộ trong phát triển bền vững. Tình hình tiêu dùng toàn cầu cho
thấy tiêu dùng bền vững không giản đơn chỉ là một thách thức được giới hạn trong
các nước phát triển quan tâm và thực hiện, mà còn liên quan nhiều đến các nước
đang phát tri n. Hiện đang nổi lên một “giai cấp tiêu dùng toàn cầu” gồm những
ể
nhóm đông đ người tiêu dùng trung lưu ngày càng thể hiện mô hình tiêu dùng
ảo
giống nhau trên toàn thế giới. Những mô hình đó cũng xuất hiện ở phần lớn các
nước châu Á khác nhau như Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản,
Thái Lan và Vi t Nam. Tiêu dùng bền vững có thể đem lại những giải pháp môi
ệ
trường cũng như những lợi ích kinh tế xã hội ở các nước châu Á. Sự hợp tác toàn
cầu về tiêu dùng bền vững có thể cho phép các nước đang phát triển tiến nhanh tới
phát triển bền vững bằng cách tránh những sai lầm của các nước phát triển.
Một số công cụ chính sách chủ yếu về tiêu dùng bền vững được bản Hướng
dẫn Liên Hiệp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng Mục G xác định bao gồm bốn công
cụ là thông tin sản phẩm, ngăn ngừa và giảm thiểu rác thải, thực hành bền vững
của Chính phủ và nhận thức, giáo dục và tiếp thị [6, tr.21] (xem bảng 1).
1.4.1. Thông tin sản phẩm
Thông tin sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong các quyết định mua sắm của
người tiêu dùng. Từ đó, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng là bảo đảm tiếp cận
được và hiểu được thông tin sản phầm về chất lượng, giá cả, sức khỏe và an toàn,
hậu quả môi trường và xã hội. Có ba loại thông tin sản phẩm cần quan tâm là kiểm
tra khách quan s n phẩm, cấp chứng chỉ độc lập cho sản phẩm và cấp nhãn hiệu
ả
sinh thái.
Kiểm tra các tiêu chí bền vững sẽ gồm các vấn đề thử theo chu kỳ tuổi thọ
(giai đoạn sản xuất, tiêu dùng và tiêu hủy) của sản phẩm hay dịch vụ. Kiểm tra sản
8
phẩm là ưu tiên chủ yếu của nhiều tổ chức người tiêu dùng vì nó thúc đẩy tiếp cận
thông tin sản phẩm, xác định được sản phẩm không an toàn hoặc không thích hợp.
Cấp chứng chỉ độc lập cho sản phẩm là việc các tổ chức cấp chứng chỉ sản
phẩm độc lập xem xét sản phẩm có đạt đầy đủ các tiêu chí đã định theo tiêu chuẩn
yêu cầu hoặc nhãn hiệu của sản phẩm cụ thể không. Để được cân đối và chấp nhận
rộng rãi, các tiêu chuẩn phải được phát triển thông qua tham khảo nhiều quyền lợi
sẽ bị ảnh hưởng do thực hiện tiêu chuẩn đó. Những quy trình đó đặc biệt phải có sự
tham gia của người tiêu dùng và người sử dụng cuối cùng các sản phẩm được chứng
thực.
Nhãn sinh thái là một phương pháp thực hiện môi trường của sản phẩm hoặc
dịch vụ trong một chủng loại sản phẩm hay dịch vụ cụ thể dựa trên những điều kiện
của tuổi thọ. Nhãn sinh thái tồn tại để biểu dương và thúc đẩy các hàng hóa và dịch
vụ chất lượng cao về môi trường và cung cấp thông tin về chất lượng và năng lực
sản xuất đối với các vấn đề như sức khỏe và tiêu dùng năng lượng. Nhãn sinh thái
luôn được một bên thứ ba khách quan cấp và cho phép dùng nhãn trên sản phẩm với
một chủng loại sản phẩm.
1.4.2. Phòng ngừa, giảm thiểu và tái chế chất thải
Theo hướng dẫn Liên Hiệp Quốc về Bảo vệ người tiêu dùng, mục G đã đề
cập “Chính phủ cần khuyến khích sự thiết kế, phát triển và sử dụng các sản phẩm và
dịch vụ an toàn có hiệu quả về năng lượng và tài nguyên trên cơ sở xem xét ảnh
hưởng của nó trong một chu trình sống. Chính phủ cần khuyến khích các chương
trình tái chế, chương trình này khuyến khích người tiêu dùng tái chế chất thải và cả
mua sản phẩm tái chế”. [6, tr.28].
Theo các khảo sát của Trung tâm Tài nguyên khu vực châu Á – Thái Bình
Dương của UNEP, chất thải sản sinh hàng năm đang tăng lên ở các đô thị châu Á,
chủ yếu do dân số tăng và lối sống thay đổi, thường là kết quả trực tiếp của sự phát
triển kinh tế nhanh. Ví dụ, ở Bangkok, chất thải rắn tằng từ 3260 tấn/ngày năm
1985 lên 9472 ấn/ngày năm 2002. Ở nhiều thành phố Đông Nam Á, rác thải gia
t
tăng đã vượt xa khả năng của cơ sở hạ tầng và công nghệ xử lý. Ví dụ, ở Việt Nam,
hiệu suất thu gom chất thải rắn đạt 40% đến 70% nhưng ở một vài thành phố, con
9
số đó chỉ là 20% đến 40%. Chất thải điện tử là loại tăng trưởng nhanh nhất. Hàng
năm người ta thải 4 triệu máy tính ở Trung Quốc. Ước tính ở châu Á đã dùng
khoảng 150 triệu máy tính trong năm 2002, con số này đang tăng thêm hàng năm
15%. Ở Ấn Độ, chất thải điện tử (“Rác E”) đáng giá 1200 triệu Euros trong năm
2003. [6, tr.28]
Bảng1: Một số công cụ chính sách về tiêu dùng bền vững
Ứng dụng
Công cụ
Thông tin sản
Trong lĩnh vực lương thực thực phẩm, việc chứng thực và mang
phẩm
nhãn hiệu của lương thực thực phẩm (ví dụ thông tin về dinh
dưỡng, ngày hết hạn, thực phẩm hữu cơ, đặc điểm bao bì…) có
thể cải thiện sức khỏe người tiêu dùng, là một thành phần rất quan
trọng của hệ thống an ninh lương thực và bảo đảm tiêu dùng bền
vững.
Ngăn ngừa và
Công nghiệp tái chế tạo cơ hội việc làm, chẳng hạn tái chế vật liệu
giảm thiểu rác
thải thành sản phẩm mới có thể giúp người dân phá vỡ chu kỳ
thải
nghèo khổ. Thái độ cụ thể đối với rác thải như văn hóa tái sử dụng
là ví dụ đầy hứa hẹn về hành vi bền vững.
Thực hành bền
Việc thực hiện chính sách mua sắm bền vững trong việc mua sắm
vững của
của Chính phủ phát triển được các thị trường cho sản phẩm bền
Chính phủ
vững. Đồng thời khuyến khích phát triển sản phẩm và cạnh tranh
giá cho người tiêu dùng.
Nhận thức,
Nâng cao nh thức (chiến dịch, thông tin), giáo dục người tiêu
ận
giáo dục và
dùng và tiếp thị là 3 hoạt động chủ yếu để chuyển thông tin đến
tiếp thị
người tiêu dùng.
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Năng lượng và Môi trường (2005), Thúc đẩy tiêu
dùng bền vững châu Á
Phòng ngừa chất thải là tránh và/hoặc giảm sản sinh chất thải ngay từ đầu,
bằng phương pháp sản xuất cải tiến và thiết kế sản phẩm. Ngăn ngừa chất thải cần
ngăn chất thải sản sinh ra từ lúc bắt đầu sản xuất. Có thể thực hiện điều đó trong
giai đoạn sản xuất cũng như trong giai đoạn sử dụng sản phẩm. Trong việc giảm
10
thiểu chất thải gồm các kỹ thuật sản xuất được cải tiến, thay đổi nguyên liệu, cải
tiến công thức sản xuất sản phẩm và giảm thiểu bao bì đóng gói hoặc dùng vật liệu
đóng gói tái chế được. Việc phòng ngừa chất thải có thể là một phương pháp mạnh
mẽ để bảo đảm tiêu dùng bền vững. Các nhà hoạch định chính sách và chuyên gia
đã xác đị nh rằng yêu cầu quan trọng là cần có sự lồng ghép lẫn nhau giữa các hệ
thống quản lý chất thải và các chiến lược tiêu dùng.
Giảm thiểu chất thải gồm những hoạt động nhằm giảm lượng rác thải phải
chôn lấp hoặc giải quyết cách khác. Có khi bằng cách chuyển đ ổi chất thải thành
nguồn hữu ích. Giảm thiểu chất thải liên quan đến một loạt các hoạt động kỹ thuật
nhằm quản lý sao cho lượng chất thải còn lại cần xử lý ở mức tối thiểu. Giảm thiểu
gồm: giảm, sửa chữa, thu hồi, tái chế, ủ phân, thiêu đốt (với các kỹ thuật sạch và có
thu hồi năng lượng) và chôn lấp. Nhiều nước EU và một số ở châu Á đã coi việc xử
lý chất thải theo trình tự là một nguyên tắc hướng dẫn quản lý chất thải.
Tái chế là một loạt các hoạt động nhằm thu hồi, phân loại, xử lý và chuyển
hóa các v liệu phế thải thành nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm mới. Các hệ
ật
thống tái chế hướng tới người tiêu dùng giúp cho bản thân người tiêu dùng biết
phân loại chất thải, dễ dàng tiếp cận các phương tiện thu hồi , thậm chí trong vài
trường hợp tạo thu nhập khác trong việc gửi trả đồ thải. Cơ sở tái chế có thể thay
đổi độ phức tạp, tùy theo nguồn lực và cơ sở hạ tầng hiện hữu. Ví dụ, việc vận
chuyển, giá vận chuyển đồ thải có thể ảnh hưởng đến vật liệu tái chế một sản phẩm
cụ thể có lợi ích kinh tế hay không? Cũng cần lưu ý rằng thị trường vật liệu tái chế
có thể thay đổi. Vật liệu với số lượng nhiều được thu hồi là giấy, thủy tinh, kim loại,
đồ nhựa, hàng điện tử.
1.4.3. Nhận thức, giáo dục và tiếp thị
Nâng cao nh thức (thông qua cuộc vận động, thông tin), gi áo dục người
ận
tiêu dùng và tiếp thị là ba biện pháp chủ yếu để truyền tải thông tin đến người tiêu
dùng, trong đó Chính ph giữ vai trò tích cực để hướng mô hình tiêu dùng đến sự
ủ
bền vững. Tức là thay đổi thái độ của người tiêu dùng theo hường mua sắm và sử
dụng những hàng hóa và dịch vụ thay thế.
11
Nâng cao nhận thức là nâng cao hiểu biết và nhận thức của công chúng về ý
nghĩa và tầm quan trọng của tiêu dùng bền vững, giới thiệu cho họ những phương
án nhằm theo đuổi lối sống bền vững
Giáo dục người tiêu dùng là làm cho họ trở nên có trách nhiệm với tập quán
tiêu dùng hàng ngày ủa họ. Trong bối cảnh tiêu dùng bền vững, giáo dục người
c
tiêu dùng chủ yếu giúp cho người tiêu dùng có khả năng chọn lựa những sản phẩm
bền vững hoặc sử dụng sản phẩm một cách bền vững hơn.
Tiếp thị là thông tin về một sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm mục đích duy nhất
là khuyến khích người tiêu dùng mua sắm hoặc sử dụng một sản phẩm hoặc một
dịch vụ cụ thể. Tiếp thị sản phẩm để khuyến khích tiêu dùng bền vững là cung cấp
thông tin sản phẩm h oặc dịch vụ thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng mà
không tổn hại đến cơ cầu xã hội hoặc môi trường
1.4.4 Thực hành bền vững của Chính phủ
Trong phần lớn các nước, Chính phủ và cơ quan nhà nước là khách hàng lớn
nhất của các loại hàng hóa và dịch vụ, từ những hàng hóa tiêu dùng cơ bản đến thiết
bị công nghệ cao. Tác động của việc mua sắm đó đối với thị trường là một trong các
đòn bẩy tiềm năng bảo đảm cho sản xuất và tiêu dùng bền vững. Một thị trường lớn
như vậy có thể là chìa khóa cho việc chỉ đạo xu hướng dùng nhiều hàng hóa và dịch
vụ bền vững hơn.
Chính phủ mua hàng với số lượng lớn, do đó có vị thế thương lượng giá cả
cũng như chất lượng tốt và thúc đẩy các công ty th mãn các đơn đặt hàng. M ua
ỏa
sắm của Chính phủ cũng có thể thúc đẩy sáng kiến bền vững. Chính phủ xác định
điều kiện và quy cách cho sản phẩm hoặc dịch vụ. Vì vậy, mặt “cầu” có thể thúc
đẩy các nhà sản xuất và hướng sáng kiến của họ vào những giải pháp bền vững hơn.
Công chúng ở nhiều nước đang đòi hỏi sự minh bạch về vấn đề chi tiêu v ốn nhà
nước. Vì vậy, mua sắm bền vững của nhà nước có thể lấy làm ví dụ. Ước tính tiêu
dùng của Chính phủ chiếm tới 20 – 25% tổng chi phí tiêu dùng ở các nước châu Á.
Mua sắm ở quy mô đó có thể ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế vùng và môi trường.
Thực hiện mua sắm bền vững không nên xem là một thay đổi cơ bản của
chiến lược mua sắm của bất kỳ tổ chức nào. Đó đơn giản là một cách nhìn lại các
12
phương pháp mua sắm cũ, đứng từ quan điểm trách nhiệm mới rộng rãi hơn. Những
chỉ đạo chính để thực hiện mua sắm bền vững là:
Tổ chức hiệu quả, có những chính sách rộng rãi để bảo đảm mọi người nhận
-
thức được chiến lược.
Huấn luyện và hướng dẫn giúp người tham gia hiểu được mua sắm bền vững
-
và ước tính chi phí cho cả chu trình sống.
Kiểm toán và theo dõi đều đặn để đánh giá xem tổ chức có đúng mua sắm
-
bền vững không và ở đâu có thể tiến bộ hơn trong lĩnh vực đó.
-
Cam kết thực hiện phát triển bền vững.
-
Ủng hộ và giáo dục các bên cung cấp.
-
Tạo mối liên hệ với các tổ chức khác để học hỏi kinh nghiệm.
-
Đóng góp mua sắm bằng cách lập tổ hợp mua sắm.
Bảng 2: Danh sách các NSDS (chiến lược phát triển bền vững quốc gia) và PRS
(chiến lược giảm nghèo) của các nước tham gia Dự án Tiêu dùng bền vững châu
Á (SC.Asia)
Nước
Đang soạn
thảo
Tình hình NSDS
Đang phát
Đang đợi phê
triển
duyệt
√
√
Bangladesh
Campuchia
Trung Quốc
√
Ấn Độ
√
Indonexia
√
Lào
Malaysia
√
Nepan
Philipin
√
Sri Lanca
Thái Lan
Việt Nam
Chú thích: “√” là có, “X” là không.
√
√
√
√
Đã phê duyệt
Tình hình PRS
Đã tiến hành
√
√
X
√
√
√
X
√
X
√
√
√
Nguồn: Trang web của RRCAP của UNEP, Ngân hàng Thế giới, UNDESA và
UNDP
13
2. Sản phẩm thân thiện với môi trường
2.1. Khái niệm sản phẩm thân thiện với môi trường
Trước khi đi vào khái niệm sản phẩm thân thiện với môi trường, chúng ta
cùng tìm hiều về sản phẩm liên quan đến môi trường, hay còn gọi là những sản
phẩm nhạy cảm với môi trường (environment sensitive commodities) là những sản
phẩm mà quá trình sản xuất, tiêu dùng và thải bỏ chúng có khả năng gây ra ô nhiễm
môi trường, làm suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên hoặc gây tác hại tới sức khỏe
của con người, động thực vật… và đòi hỏi tương đối nhiều nguồn lực nhằm xử lý
các tác hại đó.
Đánh giá mức độ liên quan của một sản phẩm đối với môi trường hay nhận
biết một sản phẩm liên quan đến môi trường thường được xác định theo các tiêu
chí:
-
Độ nguy hại của chất thải đi kèm hoặc tồn tại trong sản phẩm.
-
Ảnh hưởng tiêu cực của sản phẩm hoặc quá trình sử dụng sản phẩm tới môi
trường không khí.
-
Ảnh hưởng tiêu cực của sản phẩm tới đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái.
-
Quy trình sản xuất sản phẩm có tác động tiêu cực tới môi trường.
Cùng v khái niệm các sản phẩm nhạy cảm đối với môi trường, trong
ới
thương mại quốc tế hiện nay cũng bắt đầu xu ất hiện một thuật ngữ khác là “Sản
phẩm thân thiện với môi trường”. Đây là nhóm sản phẩm mà quá trình sản xuất, tiêu
thụ và thải bỏ không ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường (hoặc nếu có thì cũng
nhẹ hơn so với tác động tới môi trường của các sản phẩm tương tự cùng loại). Xét
trong chừng mực nào đó, các sản phẩm thâ n thiện với môi trường đôi khi còn có
ảnh hưởng tích cực tới môi trường. Ví dụ, các nông sản hữu cơ tạo điều kiện khôi
phục lại cân bằng sinh thái, hoặc khi phân hủy chúng giúp đảm bảo khả năng tái tạo
độ mùn của đất, các sản phẩm và dịch vụ khắc phục sự cố môi trường, các công
nghệ sạch.
Cho đến nay chưa có sản phẩm nào được coi là thân thiện với môi trường
một cách tuyệt đối mà chỉ tồn tại những sản phẩm thân thiện với môi trường một
cách tương đối. Một sản phẩm chỉ được coi là hoàn toàn thân thiện với môi trường
14