Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.41 KB, 112 trang )
Biều đồ 7: Tỷ lệ phát thải khí nhà kính toàn cầu năm 2000 (quy ra CO2 tương
đương)
Nguồn: Stern Review on Economics of CC, 2007
2.1.1. Kiểm soát được lượng khí thải cacbon
Kiểm kê khí thải và đánh giá lượng cacbon thải ra, sau đó tự đặt câu hỏi liệu
những biến đổi tiềm năng trong chính sách và giá cả thị trường có thể ảnh hưởng
như thế nào tới sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn.
Một số doanh nghiệp đo được lượng khí thải thực tế, trong khi các doanh nghiệp
khác chỉ tính toán lượng khí thải dựa trên lượng nhiên liệu sử dụng. Những phương
pháp này lấy kết quả dựa trên việc nhân giá trị năng lượng của nhiên liệu tiêu thụ
với lượng cacbon thải ra (lượng cacbon trong mỗi triệu BTU – đơn vị năng lượng
nhiệt ở Hoa Kỳ, xấp xỉ 1060J). Kết quả thu được khi thực hiện phép tính toán này
có thể khiến các doanh nghiệp choáng váng.
Hãng giày Timberland đã rất kinh ngạc khi phát hiện ra rằng không phải quá
trình vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm cuối cùng mà chính quá trình chế biến
nguyên liệu thô đã thải ra nhiều khí cacbon nhất.
34
2.1.2. Quản lý rủi ro và bảo vệ đầu ra của quá trình sản xuất
Các doanh nghiệp thường bắt đầu quá trình đánh giá với việc tập trung vào
quản lý rủi ro và bảo vệ đầu ra của quá trình sản xuất. Quá trình này sẽ tập trung nỗ
lực vào những cơ hội hiệu quả. Nếu không quan tâm tới tính hiệu quả, các doanh
nghiệp hoàn toàn có th đạt được những điều có ý nghĩa. Nếu có thể kiểm soát
ể
lượng cacbon theo từng vùng, quyết định này là dành cho các doanh nghiệp. Nếu
không, đừng bỏ phí thời gian và nhanh chóng hành động hơn là chờ lộ trình ban
hành các điều luật.
2.1.3. Ảnh hưởng của chính sách phát triển
Các doanh nghiệp có thể đưa ra những gợi ý có giá trị hay các biện pháp mà
nhờ nó họ có thể đạt được những chính sách hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất. Sự
thực là các chính phủ không thể làm điều này một mình. Họ không đủ năng lực để
hiểu những ẩn ý trong việc lựa chọn những chính sách khác nhau ở tất cả các ngành
trong nền kinh tế. Các hiệp hội ngành nghề có thể cung cấp những diễn đàn bổ ích
cho tất cả các loại hình doanh nghiệp để gắn kết với diễn đàn chính sách.
2.2. Tập trung vào hoạt động nghiên cứu nghiên cứu và phát triển
Khi nhà doanh nghiệp đặt chủ trương vì môi trường vào trong mục đích kinh
doanh, họ đã giành được lợi thế lớn so với các đối thủ khác. Vấn đề là tập trung vào
hoạt động nghiên cứu và phát triển như thế nào để thực hiện tốt nhất chiến lược đó?
Giá trị “xanh” đến từ đâu? Đối với các công ty muốn đưa chủ trương vì môi
trường thành nguồn lực để tạo ra lợi thế so sánh thì lĩnh vực họ cần tập trung vào là
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Tất nhiên, R&D là động lực chủ yếu cho
việc cải tiến sản phẩm và có vai trò quyết định trong việc duy trì lợi thế của các
công ty tại các thị trường luôn luôn biến động. Ngược lại, khả năng giữ lợi thế lại là
thấu kính phản ánh quá trình cải tiến sản phẩm, hiện giữ vai trò ngày càng quan
trọng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau từ năng lượng và vận tải đến sản
xuất tiêu dùng.
Nếu muốn kết hợp thành công khả năng giữ lợi thế với kế hoạch nghiên cứu
của mình thì các doanh nghiệp cần xem xét ba cách sau:
35
2.2.1. Tiến hành phân tích chu kỳ sản phẩm
Một biện pháp giúp các doanh nghiệp xây dựng đề án cải tiến sản phẩm là
phân tích chu kỳ sản phẩm (LCA), tức là kiểm tra toàn diện những tác động đến môi
trường của một sản phẩm từ khâu chọn nguyên liệu, sản xuất và phân phối đến việc
sử dụng và loại bỏ sản phẩm.
Quá trình phân tích được mở rộng ra ngoài phạm vi các tiêu chuẩn về công
năng sản phẩm và có thể hé lộ những điểm mới cần cải tiến để mang lại lợi ích cho
cả môi trường và khách hàng.
Khi Procter&Gamble thực hiện một loạt các LCA về hóa chất giặt tẩy, công
ty này đã phát hiện ra rằng có tới 80 – 85% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính có
liên quan tới những sản phẩm này được sinh ra do việc đun nóng nước để giặt, lớn
hơn nhiều so với lượng khí sinh ra do quá trình sản xuất và vận chuyển sản phẩm.
Những nghiên cứu trên đã góp phần phát triển loại bột giặt dùng nước lạnh có thể
tiết kiệm tiền chi phí cho năng lượng của khách hàng và gi m lượng thải khí nhà
ả
kính. P&G đưa ra các công thức bột giặt nước lạnh tại châu Âu năm 2003 và tại Mỹ
năm 2005, và là công ty đầu tiên bán các sản phẩm đó tại hai thị trường trên.
2.2.2. Phân tích các xu thế lớn định hình thị trường
Quá trình “xanh hóa” các hoạt động sản xuất kinh doanh đang được quy định
bởi các xu thế vĩ mô toàn cầu như giá năng lượng lên cao, nguồn nước khan hiếm,
những thay đổi về dân số và cả các quy định mới.
Lãnh đạo doanh nghiệp cần hợp tác với đội ngũ làm R&D để phân tích xem
những xu thế này đang tác động làm thay đổi nhu cầu của khách hàng thế nào và sẽ
tiếp tục tác động trong các năm tiếp theo ra sao.
GreenOrder đã tiến hành các cuộc hội thảo với các khách hàng nhằm xem xét
các xu thế đó đồng thời phát huy trí tuệ để tìm kiếm những giải pháp mới giúp chế
ngự chúng. Các buổi hội thảo đạt hiệu quả cao nhất khi tập trung được đầy đủ các
chuyên gia về phát triển sản phẩm, xây dựng quy định, phân tích thị trường và lãnh
đạo doanh nghiệp. Họ cũng khuyến khích người tham gia phân tích không ch một
ỉ
xu thế (như việc khan hiếm tài nguyên thiên nhiên) mà là nhiều xu thế, mặc dù
chúng có v chẳng liên quan gì tới nhau, như việc sử dụng máy tính rộng rãi và
ẻ
36
khan hiếm tài nguyên, song lại có thể tương tác với nhau để hình thành những yêu
cầu mới đối với các sản phẩm mới.
2.2.3. Định hướng phát triển với tiêu chuẩn đơn giản
Việc phân tích các xu thế lớn và chu kỳ hoàn chỉnh của sản phẩm là các công
cụ hữu hiệu nhằm xây dựng những khái niệm và ưu tiên cho hoạt động R&D mới.
Tuy nhiên, đó là những công việc phức tạp chỉ thỉnh thoảng mới được thực thi một
cách tốt nhất.
Trong công việc hàng ngày, đội ngũ R&D cần những công cụ và chỉ dẫn đơn
giản để giúp họ đưa ra các quyết định về những đặc tính của sản phẩm. Tạo lập
được hệ thống các thông số phục vụ việc xác định chính xác mức độ tiến bộ của các
chỉ số chính về khả năng duy trì lợi thế có thể giúp giảm bớt những mục tiêu rộng
lớn hơn của doanh nghiệp.
SC Johnson là m ví dụ điển hình. Công ty này đã phát triển hệ thống
ột
Greenlist nhằm quản lý các nguyên liệu thô được sử dụng trong sản phẩm của mình.
SC Johnson chấm điểm các nguyên liệu thô công ty sử dụng theo thang điểm từ 0
(nguyên liệu sử dụng hạn chế) tới 3 (chất lượng tốt nhất đối với môi trường). Các
chuyên viên quản lý nhờ đó có thể dễ dàng kiểm tra các sản phẩm và chỉ đạo của họ
đối với đội ngũ phát triển sản phẩm trở nên đơn giản là: hãy nâng cao điểm. Từ
ngày thực hiện Greenlist, SC Johnson đã cải tiến công thức các sản phẩm Windex,
Pledge và Fantastik nh cắt giảm các hóa ch ất dễ bay hơi và cải thiện khả năng
ằm
phân hủy sinh học. Điều này cũng mang lại những lợi thế thực sự về tiếp thị. Tại
EU, cố gắng của SC Johnson đã cải tiến công thức các sản phẩm giúp công ty
không phải đóng nhãn cảnh báo về mức độ độc hại trên bao bì sản phẩm theo lệnh
của chính phủ.
Trong từng trường hợp trên, quá trình làm xanh hoạt động R&D của doanh
nghiệp đều là những nỗ lực tổng hợp. Nó đòi hỏi khả năng sáng tạo và những nguồn
lực quan trọng. Nhưng thành quả thu được có thể rất lớn. Doanh nghiệp nào thực
hiện đúng quá trình này sẽ tạo ra được những sản phẩm mới chắc chắn sẽ thành
công trên thị trường với nhiều kỳ vọng mới.
37
Toàn bộ chương I đã cung cấp khái quát về các vấn đề liên quan đến tiêu
dùng bền vững và sản phẩm thân thiện với môi trường cũng như mối liên hệ của nó
với các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tiêu dùng bền vững là một vấn đề đã xuất
hiện khá phổ biến ở các nước phát triển, tuy nhiên nó vẫn mới mẻ ở nước ta. Khái
niệm “Sản phẩm thân thiện với môi trường” cũng vậy. Đây là một xu hướng đã có
từ lâu trên thế giới. Ở Việt Nam, gần đây người tiêu dùng và các doanh nghiệp cũng
rất quan tâm. Mặc dù người tiêu dùng gặp phải một số vấn đề khó khăn khi chọn
lựa sản phẩm thân thiện với môi trường cũng như các doanh nghiệp Việt Nam còn
cần rất nhiều yếu tố để có thể sản xuất các sản phẩm này, nhưng đây vẫn được coi
là xu hướng tất yếu trong tiêu dùng hiện nay ở nước ta. Để sản phẩm thân thiện với
môi trường ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thị trường thì sự phối hợp giữa
nhà sản xuất và người tiêu dùng là rất cần thiết.
38
CHƯƠNG II: ẢN PHẨM THÂN THIỆN VỚI MÔI TRƯỜNG
S
–
HƯỚNG ĐI MỚI CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT SẢN PHẨM THÂN THIỆN VỚI MÔI TRƯỜNG
Ở CÁC DOANH NGHIỆP TRONG THỜI GIAN QUA
1. Hoạt động sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường ở các doanh nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua
Sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường vẫn còn là một lĩnh vực
mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã và đang rất quan
tâm đến vấn đề môi trường. Trong quá trình s xuất họ cũng đầu tư rất nhiều vào
ản
quy trình công ngh để giảm đến mức tối thiểu các tác động xấu đến môi trường.
ệ
Tuy nhiên, các doanh nghi Việt Nam chưa có sự bứt phá thực sự để có được
ệp
những sản phẩm thân thiện với môi trường mà vẫn đảm bảo được chất lượng cũng
như giá cả so với các sản phẩm cùng loại.
Để nói về tình hình sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường ở các
doanh nghiệp Việt Nam trong th gian qua không dễ chút nào bởi chưa có một
ời
thống kê chi tiết nào về các sản phẩm thân thiện với môi trường cũng như doanh
thu, lợi nhuận của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm này. Tuy
nhiên, có thể kể ra một vài lĩnh vực tập trung nhiều sản phẩm thân thiện với môi
trường như các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, vật
liệu xây dựng, bao bì. Đây là những sản phẩm vốn sẵn đã rất “xanh”. Ngoài ra còn
có một số sản phẩm khác như các loại phương tiện giao thông: xe máy, ô tô của một
số hãng hay các thiết bị công nghệ cao: điện thoại, laptop… Đây là những sản phẩm
bước đầu đã chú trọng đến tính thân thiện với môi trường nhưng giá cả còn khá cao
nên chưa đến được với nhiều người tiêu dùng. Xu hướng này hiện vẫn tiếp tục, chắc
chắn trong vài năm tới sẽ có nhiều sản phẩm công nghệ cao thân thiện với môi
trường hơn.
Để có được cái nhìn toàn diện hơn về tình hình sản xuất các sản phẩm thân
thiện với môi trường trong thời gian qua, tôi đ tiến hành khảo sát một số doanh
ã
nghiệp ở một số lĩnh vực như các sản phẩm tiêu dùng, gia dụng cũng như các sản
phẩm kỹ thuật. Có những doanh nghiệp đã tìm ra được hướng đi mới cho mình và
39
đang tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm để cho ra đời những sản phẩm thực sự có chất
lượng mà vẫn đảm bảo tính thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó rất nhiều doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Có rất nhiều thuận lợi mà các doanh nghi p tìm thấy để phát triển các sản
ệ
phẩm thân thiện với môi trường. Thứ nhất, sản phẩm thân thiện với môi trường là
một lĩnh vực đầy tiềm năng. Doanh nghi p nào khai thác đư thị trường này sẽ
ệ
ợc
phát triển rất nhanh. Có rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp mới xâm nhập vào
thị trường sản phẩm thân thiện với môi trường. Một số lĩnh vực có thể chú ý là năng
lượng, sản phẩm tiêu dùng, đồ gỗ mỹ nghệ… Thứ hai, có rất nhiều nhà khoa học
quan tâm đến vấn đề môi trường và các sản phẩm liên quan đến môi trường. Chính
họ đã đưa ra rất nhiều ý tưởng về dòng sản phẩm này. Chẳng hạn, PGS.TS. Nguyễn
Đức Khảm, qua một thời gian dài nghiên cứu tại nước ngoài đã đưa ra ý tưởng về
loại bao bì tự phân hủy. Ý tưởng này đã được Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ
mới phát triển và đưa ra thị trường. Nhìn bề ngoài, sản phẩm bao bì tự hủy này
không khác gì các s phẩm túi nilon bình thường nhưng điểm khác biệt của nó là
ản
tính chất tự hủy do được làm từ polymer sinh học. Đây là sản phẩm được đánh giá
là rất có triển vọng với giá cả có thể cạnh tranh. Thuận lợi thứ ba của sản phẩm
thân thiện với môi trường xuất phát từ tính thời đại. Giai đoạn hiện nay, khi mà môi
trường trở thành vấn đề bức xúc của tất cả các quốc gia trên thế giới. Quan tâm đến
môi trường là tự cứu lấy chính mình. Do đó các sản phẩm thân thiện với môi trường
từ khi mới ra đời đã được người tiêu dùng đón nhận và hoan nghênh.
Bên cạnh những thuận lợi này, việc phát triển các sản phẩm thân thiện với
môi trường còn gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, một số doanh nghiệp mới chỉ tập
trung vào sản xuất các sản phẩm theo nhu cầu của người tiêu dùng. Những sản
phẩm mang tính mới rất ít được sản xuất bởi tính chất e ngại của người tiêu dùng do
chưa biết rõ về nó. Nếu doanh nghiệp có cách quảng bá rộng rãi và trung thực, chắc
chắn người tiêu dùng sẽ tin tưởng sử dụng hơn. Thứ hai, một số doanh nghiệp đã có
hướng đi cho sản phẩm này rồi nhưng việc sản xuất còn gặp khó khăn. Chẳng hạn
với công ty Cổ phần Tinh dầu và Hương liệu Việt Nam Essoil Vina, đây là công ty
chuyên cung cấp các sản phẩm tinh dầu làm từ nguyên liệu tự nhiên rất tốt cho môi
40