Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.03 KB, 68 trang )
22
Chuyên đề tốt nghiệp
và sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Sự biến động đột ngột về giá cả cũng gây sức ép
tăng tiền lương cho công nhân viên, điều này đã tạo ra một khoản chi phí
không nhỏ cho công ty.
Lạm phát cũng là một nhân tố kinh tế ảnh hưởng lớn tới hoạt động của
công ty. Lạm phát là yếu tố mà sự biến đổi của nó sẽ tác động tới sự thanh
toán và rõ ràng nhất là giá thành thanh toán. Đối với các công trình thi công
trong thời gian ngắn, giá trị nhỏ thì có thể sự ảnh hưởng này là không quá lớn
nhưng đối với các công trình thi công trong thời gian dài có giá trị lớn thì tỷ lệ
lạm phát biến động mạnh sẽ gây ra các ảnh hưởng không nhỏ đối với công ty.
Mặc dù yếu tố lạm phát đã được tính đến trong các chi phí để hình thành lên
giá dự thầu nhưng khi tỷ lệ lạm phát biến động quá mạnh thì sẽ có sự xem xét
điều chỉnh của Nhà nước hoặc sẽ có sự thương thảo giữa công ty và chủ đầu
tư để bổ sung vào giá thi công (được quy định tại điều 57 : Điều chỉnh hợp
đồng, Luật đấu thầu ), nhưng những điều chỉnh này chỉ có chỉ có tác dụng
giảm bớt các thiệt hại do lạm phát gây ra. Nhưng nếu tỷ lệ lạm phát giảm thì
rất có thể công ty sẽ thu về được một khoản lợi nhuận không nhỏ và ngược lại
nếu lạm phát cao, công ty sẽ phải chấp nhận những khó khăn, thiệt hại do lạm
phát gây ra.
1.2 Nhân tố chính trị Pháp luật
Môi trường chính trị ổn định ở nước ta luôn là một điều kiện tốt cho
các ngành nghề cùng phát triển, các doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh
doanh, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sẽ tạo
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp xúc và mở rộng sản xuất kinh doanh
không chỉ ở phạm vi đất nước mình mà còn ở thị trường khu vực và thế giới.
Điều này cũng có nghĩa là mỗi doanh nghiệp kinh doanh hiện nay không chỉ
cạnh tranh với các doanh nghiệp ở chính nước mình mà còn phải cạnh tranh
Đỗ Thị Phượng
Lớp: QTKD TH45B
23
Chuyên đề tốt nghiệp
trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, số lượng đối thủ cạnh
tranh, tính chất và cường độ cạnh tranh sẽ cao hơn hẳn so với các thời kỳ
trước đó.
Ngành xây dựng là một ngành kinh tế lớn, có tác động tới mọi mặt của
đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển của đất nước, hoạt động xây dựng
ngày càng phức tạp hơn với nhiều mối quan hệ cần được điều chỉnh.
Trong những năm qua nhà nước ta đã ban hành và tiến hành sửa đổi rất
nhiều văn bản quy phạm Pháp luật trong hoạt động xây dựng để ngành này có
thể hoạt động một cách hiệu quả nhất. So với nhiều quy chế, luật lệ của các
ngành nghề khác thì Quy chế đấu thầu được áp dụng trong thời gian thực tế
chưa lâu nhưng đã đem lại những hiệu quả nhất định. Quy chế đấu thầu đã
thực sự trở thành cơ sở pháp lý để Nhà nước có thể thực hiện được vai trò
quản lý của mình, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực
cho các doanh nghiệp xây dựng phát triển. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp
luật giúp các nhà xây dựng yên tâm trong hoạt động, phát huy các lợi thế
trong từng công việc, tạo ra khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khi
tham gia vào môi trường xây dựng quốc tế, từ đó tạo được niềm tin trong việc
vay vốn, nhận tài trợ,… của các tổ chức tài trợ quốc tế.
Nhà nước và các nhà đầu tư đang dần coi trọng và tiêu chuẩn hoá công
tác quản lý chất lượng công trình xây dựng. Sản phẩm xây dựng là sản phẩm
sản xuất đơn chiếc có giá thành cao, ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn, thời gian sử
dụng lâu dài và không cho phép có phế phẩm, vì vậy vấn đề này lại càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Quản lý chất lượng công trình cũng được coi là
phương tiện nâng cao sức cạnh tranh để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
và khó tính của khách hàng.
Tuy nhiên, bên cạnh các tác động tích cực của hệ thống pháp luật về
xây dựng thì các quy phạm pháp luật về xây dựng trong thời gian qua vẫn còn
Đỗ Thị Phượng
Lớp: QTKD TH45B
24
Chuyên đề tốt nghiệp
rất nhiều hạn chế, đặc biệt là trong cơ chế đấu thầu. Đấu thầu ở nước ta là một
hạn chế rất lớn đối với nhà thầu, làm cho tính cạnh tranh trong đấu thầu bị
bóp méo và hiệu quả đầu tư không đạt được như mục tiêu đề ra. Ngoài ra, do
hệ thống pháp luật vẫn chưa được hoàn thiện, các chính sách vẫn chưa thật
đồng bộ, hoàn chỉnh, chưa phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay. Các văn
bản thường xuyên phải thay đổi nên có tác động không tốt tới các chủ thể có
liên quan trong việc tiếp cận và thực thi các văn bản mới.
1.3 Nhân tố kỹ thuật – công nghệ
Nhân tố kỹ thuật – công nghệ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá thành, chất lượng, tiến độ thi
công của các công trình. Hiện nay trên thế giới và cả ở trong nước đã xuất
hiện nhiều công nghệ mới trong xây dựng, từ công nghệ sản xuất nguyên vật
liệu là sắt, thép, xi măng,… đến các máy móc công nghệ phục vụ thi công xây
dựng và lắp đặt. Để hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp cần phải thường
xuyên nắm bắt được những công nghệ mới, bên cạnh đó việc giữ vững mối
quan hệ với các nhà cung cấp cũng rất quan trọng. Tất cả các yếu tố trên bị tác
động bởi thị trường, khách hàng, nhà cung cấp nên ảnh hưởng không nhỏ đến
vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Một vấn đề nữa mà doanh nghiệp cần hết sức quan tâm đó là lĩnh vực
tin học và công nghệ thông tin đang dần thâm nhập vào thị trường xây dựng.
Các chương trình phần mềm ứng dụng trong quản lý chất lượng công trình và
thi công dự án được giới thiệu trên thị trường, các phần mềm về kế toán xây
dựng, về thiết kế công trình cũng đang được ứng dụng rộng rãi.
1.4 Các nhân tố thuộc nội bộ doanh nghiệp
1.4.1 Khách hàng
Nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, đời sống và thu nhập của
người dân ngày càng được nâng cao, vì vậy các nhu cầu về vật chất và dịch
Đỗ Thị Phượng
Lớp: QTKD TH45B
25
Chuyên đề tốt nghiệp
vụ ngày càng lớn, đặc biệt là nhu cầu về nhà ở, tiện nghi sinh hoạt. Nhất là
việc nhà nước cho phép Việt Kiều được mua nhà tại Việt Nam. Do vậy, nhu
cầu nhà đất tăng mạnh tạo ra một thị trường lớn cho các chủ đầu tư. Riêng tại
Hà Nội, các khu đô thị đang được xây dựng rất nhiều, cùng với nó là các toà
nhà cao tầng cũng mọc lên san sát. Kéo theo nó là nhu cầu về nội thất, tiện
nghi trang thiết bị phục vụ cuộc sống ngày càng được chú trọng. Đây chính là
cơ hội lớn để công ty nắm bắt được các hợp đồng.
Theo phân tích của M.Porter, khách hàng của doanh nghiệp là những
người có cầu về sản phẩm ( dịch vụ ) do doanh nghiệp cung cấp. Và đối với
mọi doanh nghiệp, khách hàng không chỉ là khách hàng hiện tại mà còn phải
tính đến cả các khách hàng tiềm ẩn. Khách hàng là yếu tố then chốt quyết
định đến sự thành bại của công ty. Do sản phẩm của công ty chủ yếu là sản
phẩm xây lắp nên khách hàng của công ty rất đa dạng bao gồm các nhóm sau
- Các cơ quan hành chính Nhà nước
- Các tổ chức xã hội
- Các công ty trong nước
- Các cá nhân
Khách hàng là những người tiêu thụ sản phẩm của công ty nên họ có
những đòi hỏi về giá thành, chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ,…vì vậy
đòi hỏi công ty phải không ngừng cải tiến để hoàn thiện mình hơn nhằm đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng trong môi trường cạnh tranh ngày càng
khắc nghiệt như hiện nay. Trong ngành xây dựng thì những nhu cầu của
khách hàng được thông qua các chủ đầu tư. Chủ đầu tư là cơ quan chịu trách
nhiệm toàn diện về các vấn đề liên quan đến dự án trước pháp luật, do vậy
chủ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp tham gia đấu thầu công
trình. Với chủ đầu tư có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, có tinh thần trách
nhiệm cao sẽ tạo ra được một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong đấu
thầu, từ đó sẽ chọn ra được nhà trúng thầu thoả đáng, ngược lại dễ tạo nên sự
quan liêu trong đấu thầu. Chủ đầu tư có thể ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của
Đỗ Thị Phượng
Lớp: QTKD TH45B
26
Chuyên đề tốt nghiệp
công ty được xét đến ở đây là : thứ nhất là sự thích ứng, phù hợp giữa năng
lực của công ty với các yêu cầu của chủ đầu tư. Nó phản ánh tính ưu việt, tính
tối ưu của những phương án do công ty đề xuất. Thứ hai là mối quan hệ giữa
công ty và chủ đầu tư. Xét về khía cạnh này thì sự cạnh tranh diễn ra ngay cả
khi chuẩn bị phát hành hồ sơ mời thầu. Trên thực tế có một số công trình khi
tham gia dự thầu, công ty nhờ có quan hệ tốt với chủ đầu tư nên đã được mời
dự thầu và mua hồ sơ sớm hơn so với các đối thủ khác. Nhưng ngược lại,
công ty cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào những gói thầu mà
giữa chủ đầu tư và đối thủ cạnh tranh có quan hệ tôt.
Trong những năm qua công ty đã tạo được hình ảnh và uy tín lớn đối
với khách hàng/ chủ đầu tư thông qua những dự án, công trình có chất lượng
cao, giá trị lớn như khu đô thị mới Mễ Trì Hạ, Mỹ Đình, Uỷ ban nhân dân,
trường học và bệnh viện các tỉnh Bắc Ninh, Quảng Ninh,… Ta có bảng doanh
thu từng nhóm khách hàng công ty đã thực hiện :
Bảng 9: Bảng doanh thu từng nhóm khách hàng công ty thực hiện
Đơn vị
tính
Cơ quan
hành chính
Nhà nước
Tổ
chức
xã hội
Công ty
trong
nước
Cá
nhân
Tổng
Doanh thu
Trđ
8.225
5.214
9.842
2.473
25754
Tỷ trọng
%
31,94
20,24
38,22
9,60
100
Từ bảng số liệu trên ta thấy : Nhóm khách hàng lớn nhất của công ty là
các Công ty trong nước có doanh thu là 9842 trđ ( tương đương với 38, 22 % )
và các cơ quan hành chính Nhà nước có doanh thu là 8.225 trđ ( tương đương
với 31,94 % ), thấp nhất là các cá nhân với doanh thu là 2.473 trđ ( tương
đương với 9,60 % ). Như vậy công ty cần phải chú trọng hơn nữa để tăng tỷ
trọng nhóm khách hàng là cá nhân lên vì đời sống của người dân ngày càng
được nâng cao, nhu cầu về tiện nghi sinh hoạt ngày càng lớn sẽ tạo ra những
cơ hội rất lớn cho công ty, hơn nữa đây là nhóm cung cấp nguồn vốn lưu
động cho công ty để có thể tham gia đầu tư vào những công trình lớn nhưng
có thời gian thu hồi vốn chậm. Hiện nay, công ty đang theo đuổi những dự án
lớn. Đặc biệt công ty đang chú trọng đến những dự án thuộc khu chung cư
Đỗ Thị Phượng
Lớp: QTKD TH45B
27
Chuyên đề tốt nghiệp
mới ở Hà Nội và các dự án lớn ở miền Trung và trong tương lai công ty sẽ mở
rộng thị trường ra toàn quốc.
1.4.2 Các đối thủ cạnh tranh trong ngành
Mỗi doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường đều
có các đối thủ cạnh tranh, cả trực tiếp và tiềm ẩn, ngành xây dựng cũng vậy.
Trong bối cảnh nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng đang rất cao nên số doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động xây lắp là rất lớn. Các đối thủ cạnh tranh với
công ty CDTC là những đối thủ rất mạnh trong hoạt động đấu thầu, xây lắp
như Công ty cổ phần công nghệ quốc gia, công ty cổ phần thương mại 3C,
công ty VTC,…Các công ty này thường có quy mô và năng lực không chênh
lệch nhau nhiều nên không có ưu thế tuyệt đối trong cạnh tranh. Chính vì vậy,
sự cạnh tranh trong toàn ngành diễn ra rất quyết liệt, đòi hỏi công ty phải biết
tận dụng tốt các lợi thế của mình. Việc có nhiều đối thủ cạnh tranh có tác
động tích cực ở chỗ : nó khiến Công ty phải luông cố gắng tự hoàn thiện mình
về mọi mặt như tài chính như sự đảm bảo về chất lượng công trình, đảm bảo
và nâng cao uy tín trên thị trường xây dựng cũng như đối với khách hàng.
Nhưng việc có nhiều các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh
trực tiếp sẽ khiến cho cường độ cạnh tranh trong ngành ngày càng gay, gắt
khốc liệt hơn, khả năng thắng thầu của Công ty khi tham gia đấu thầu các dự
án, công trình khó hơn.
Hiện nay, để tăng khả năng cạnh tranh của mình trước sự cạnh tranh
mạnh mẽ của các đối thủ, giải pháp hiệu quả mà công ty đã, đang và sẽ thực
hiện trong tương lai đó là liên danh trong đấu thầu. Ưu điểm của liên danh là
một mặt năng lực của công ty tăng lên về tài chính, nhân sự, máy móc trang
thiết bị,…, mặt khác với sự phối hợp trong liên danh, công việc sẽ được thực
hiện có hiệu quả hơn nhờ vào sự phân công dựa trên thế mạnh của từng bên,
các bên sẽ bù đắp những điểm yếu của bên kia và như vậy sẽ nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình.
1.4.3 Các đối thủ tiềm ẩn
Các đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp mới xuất hiện hoặc sẽ xuất
hiện trên khu vực thị trường mà công ty đang và sẽ hoạt động. Nó ảnh hưởng
Đỗ Thị Phượng
Lớp: QTKD TH45B