1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

1 Vài nét về lực lượng lao động trong nông nghiệp và nông thôn nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.74 KB, 83 trang )


Số ngời đủ 15 tuổi trở lên thờng xuyên có việc làm trong 12 tháng qua là 35,731

triệu ngời, chiếm 94,56% lực lợng lao động thờng xuyên. Cũng trong năm 1999

tỷ lệ tham gia lực lợng lao động thờng xuyên trong dân số từ đủ 15 tuôỉ trở lên là

71,19%, trong khi đó ở khu vực thành thị là 62,38% còn ở nông thôn là 74,20%

cao hơn khu vực thành thị và mức trung bình của cả nớc.

Lực lợng lao động ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng lực lợng

lao động của cả nớc. Năm 1996 có 29,028 triệu lao động chiếm 80,94%; năm

1997 có 28,963 triệu lao động chiếm 79,80%, năm 1998 có 29,757 triệu lao

động chiếm 79,55%; năm 1999 có 29,363 triệu lao động chiếm 77,71%.



Bảng 1: Lực lợng lao động khu vực nông thôn và cả nớc qua các năm.

Lao động cả nớc



Lao động khu vực



Tỉ trọng Lao động



(tr.ngời)



nông thôn (tr.ngời)



nông thôn ( %)



1996



35,864



29,028



80,94



1997



36,294



28,963



79,80



1998



37,406



29,757



79,55



1999



37,785



29,363



77,71



Năm



Nguồn : Thực trạng lao động việc làm các năm 1996,1997,1998,1999 Bộ

lao động &thơng binh xã hội và tổng cục thống kê.

Thông qua số liệu trên ta thấy lực lợng lao động nông nghiệp, nông thôn có

xu hớng giảm đi một cách tơng đối trong mấy năm qua, nhng vẫn còn chiếm

77,71% lực lợng lao động của cả nớc.

2.1.2 Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lực lợng lao động khu vực

nông thôn

Trình độ học vấn của lao động khu vực nông thôn còn thấp và thấp hơn

nhiều so với khu vực thành thị. Năm 1999, tỉ lệ ngời cha tốt nghiệp cấp 1 trong

lực lợng lao động của khu vực nông thôn vẫn còn chiếm 24,99%, trong khi đó ở

khu vực thành thị chỉ có 11,93%. Tỉ lệ tốt nghiệp cấp 3 của lực lợng lao động ở

khu vực nông thôn chỉ có 11%, trong khi đó ở thành thị là 37,42%. điều đó khiến

cho lớp học bình quân một ngời ở khu vực nông thôn là 7/12.

Trong điều kiện hiện nay rất cần lao động có chuyên môn, song lao động có

chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn hiện tại vẫn còn chiếm tỷ lệ rất thấp .Năm

1999 ở khu vực nông thôn Việt nam có 2337,7 ngàn lao động có trình độ chuyên

môn kỹ thuật, chiếm 7,8% so với lực lợng lao động trong khu vực này. Hàng

năm, lao động có chuyên môn kỹ thuật trong nông thôn có tăng lên nhng số lợng

tăng và tỉ lệ tăng còn chậm. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật năm

1999 so với năm 1996 bình quân hàng năm tăng đợc 27,2 ngàn ngời, với tốc độ



tăng là 1,2%/năm, trong khi đó ở khu vực thành thị tăng đợc 48,7 ngàn ngời, tốc

độ tăng là 10,4%/năm.

Số lao động trong nông thôn đợc đào taọ không đồng đều giữa các tỉnh.

Đến tháng 10/1999 ở một số tỉnh vẫn còn rất ít ngời lao động đã qua đào tạo nh

ở Lai Châu chỉ có 2.555 ngời trong tổng số 881.000 ngời dân toàn tỉnh, Kon tum

chỉ có 2.414 ngời trong tổng số 314.000 ngời lao động.

Đối với cán bộ các HTX, trình độ quản lý còn thấp. Tổng kết 1.347 HTX đã

chuyển đổi theo Luật HTX. ở 10 tỉnh phía Bắc cho thấy số chủ nhiệm HTX có

trình độ đại học chỉ chiếm 6,3%, trung cấp chiếm 13,7%, sơ cấp chiếm 22,4% và

cha qua đào tạo chiếm 57,5%. Số kế toán trởng có trình độ đại học chỉ chiếm

37,1%, trung cấp chiếm 12,5%, sơ cấp chiếm 48% và cha qua đào tạo chiếm

37,1%. Không ít chủ nhiệm HTX, nhất là vùng sâu, vùng xa và miền núi mới chỉ

qua trình độ văn hoá cấp 1, kế toán trởng mới qua lớp tập huấn ngắn hạn.

2.1.3 Cơ cấu của lực lợng lao động trong nông thôn

Do lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật không nhiều, nên hầu hết lao

động ở nông thôn nớc ta là lao động nông nghiệp, số lao động nông nghiệp kiêm

thêm các ngành nghề khác và lao động thuộc các ngành nghề phi nông nghiệp

không nhiều.

Theo số liệu điều tra lao động việc làm năm 1999 cả nớc có 22,725 triệu

ngời làm việc trong ngành nông nghiệp, chiếm 63,69% so với tổng số lao động

cả nớc, giảm hơn 3,2% so với lao động năm 1996. Cả nớc có 4,45 triệu ngời làm

việc trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 12,45% so với tổng số của năm

1999, so với năm 1996 tăng 0,52%. Năm 1999 cả nớc có 8,555 triệu ngời làm

việc trong ngành dịch vụ, chiếm 23,86% so với tổng số lao động của cả nớc, so

với năm 1996 tăng 3,28% , trong năm 1999 khu vực lao động nông thôn qua

điều tra có 27,806 triệu ngời thì có 21,585 triệu lao động làm việc trong ngành

nông-lâm-ng nghiệp, chiếm 77,62% so với tổng số lao động, có 2,267 triệu lao

động làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng, chiếm 8,15% so với tổng

số, có 3,954 triệu lao động làm việc trong ngành dịch vụ chiếm 14,23% so với



tổng số lao động của cả nớc. Nh vậy, đại bộ phận lao động nông thôn hoạt động

trong các ngành nông-lâm-ng nghiệp; các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch

vụ có xu hớng hiện nay là đẩy mạnh đầu t phát triển các ngành công nghiệp dịch

vụ trong nông thôn, nhằm tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho ngời dân, góp

phần tích cực vào quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.

2.2 Thực trạng về việc làm trong nông nghiệp, nông thôn nớc ta

2.2.1 Thực trạng việc làm

2.2.1.1.Thời gian sử dụng lao động trong khu vực nông thôn

Nhiều cuộc điều tra lao động việc làm cho thấy thời gian sử dụng lao động

khu vực nông thôn thấp chỉ có 18% ngời lao động làm việc 210 ngày công/năm,

còn lại làm việc dới 200 ngày công/năm, trong đó 21% chỉ làm việc trong 90

ngày công/năm, bình quân 4-5 h/ngày.

Tính chung ở nông thôn còn khoảng 30 - 40% thời gian nhàn rỗi cha đợc

huy động vào sản xuất, tơng ứng với 1,2 tỉ ngày công, hay tơng đơng với trên 5

triệu ngời cha có việc làm. Mới đây, cuộc điều tra và thực trạng lao động việc

làm ở nông thôn của Bộ lao động thơng binh và xã hội cho thấy tỉ lệ thời gian lao

động đợc sử dụng ở nông thôn là 73,28% vào năm 1999, cao hơn so với năm

1997 ( 72,9%). Trong đó các vùng núi và trung du phía Bắc, Tây Nguyên, Đông

Nam Bộ có tỉ lệ thời gian lao động đợc sử dụng ở khu vực nông thôn cao hơn tỉ

lệ trung bình của cả nớc. Năm 1998, tỉ lệ thời gian lao động ở khu vực nông thôn

giảm đáng kể so với năm 1997 (giảm từ 72,9% năm 1997 xuống còn 70,88%

năm 1998). Năm 1999 tỉ lệ này đợc nâng lên là 73,28% trong đó Tây nguyên là

vùng có tỉ lệ thời gian sử dụng cao nhất (78,35%), tiếp đến là Đông Nam Bộ

(76,70%), Duyên Hải Nam Trung Bộ (73,67%), Đồng bằng sông Hồng

(73,42%), Đồng bằng sông Cửu Long (73,11%), Tây Bắc (72,35%), Bắc Trung

Bộ (71,78%) và Đông Bắc Bắc Bộ (71,38%). Trong cơ cấu thời gian lao động sử

dụng ở khu vực nông thôn thì thời gian giành cho trồng trọt vẫn chiếm tỷ lệ lớn

66,67% vào năm 1999.

Có thể nêu ra một số nguyên nhân của thực trạng trên nh sau:



Một là : Đất đai bình quân đầu ngời thấp (diện tích đất nông nghiệp bình

quân đầu ngời nớc ta 0,1ha/ngời, xếp thứ 9/10 nớc Đông Nam á). Trong khi đó,

với tác động của quá trình đô thị hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi , xây

dựng các nhà máy khu công nghiệp, khu dân c, xây dựng cơ sở hạ tầng nông

thôn, do thiên tai lũ lụt sói mòn, nở đất ... Mỗi năm nớc ta giảm hơn 2 vạn ha đất

nông nghiệp. Mặt khác dân số nớc ta ngày càng tăng. theo kết quả tổng điều tra

dân số ngày 1/4/1999, cả nớc có 76,3 triệu ngời, trong đó số lao động ở nông

thôn chiếm 76,5%. So sánh giữa hai thời điểm điều tra dân số năm (1989 -1999),

trong vòng 10 năm dân số nớc ta tăng gần 12 triệu ngời, đồng thời mật độ dân số

phân bố không đồng đều giữa các vùng (đồng bằng sông Hồng 1.180 ngời/km2;

đồng bằng sông Cửu Long 408 ngời/km2; vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ 60

ngời/km2).

So sánh sự biến động giữa hai yếu tố đất nông nghiệp và dân số những năm

gần đây cho thấy từ năm 1995 đến 1998, đất nông nghiệp cả nớc tăng bình quân

mỗi năm 178,8 ngàn ha, tăng 0,6%/năm. Trong khi đó tốc độ tăng dân số mỗi

năm là 1,7%/năm, số lao động mỗi năm tăng trên 1 triệu ngời (năm 1998 / 1997

tăng 1,25 triệu ngời ) , dẫn đến diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu ngời

giảm xuống còn 1,1%/năm .Mặt khác trong những năm gần đây do sự mở rộng

các khu công nghiệp,các khu đô thị.Do đó diện tích đất nông nghiệp ngày càng

giảm đi trong khi đó số lợng lao động mỗi năm ngày càng tăng . Do đó không đủ

việc làm để cân đối cho số lao động tăng thêm và gần chục triệu lao động đang

thiếu việc làm ở nông thôn.

Hai là : Nông nghiệp có tính thời vụ cao đã tạo ra một thời gian nhàn rỗi lớn

lao động nông thôn

Ba là : Do sự đa dạng hoá của nông nghiệp còn ở mức thấp, cùng với sự

phát triển thấp kém của công nghiệp, thơng mại, dịch vụ và các hoạt động sản

xuất phi nông nghiệp trong nông thôn là một nguyên nhân căn bản đã hạn chế

mở rộng việc làm trong khu vực này.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

×