Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.74 KB, 83 trang )
Một là : Đất đai bình quân đầu ngời thấp (diện tích đất nông nghiệp bình
quân đầu ngời nớc ta 0,1ha/ngời, xếp thứ 9/10 nớc Đông Nam á). Trong khi đó,
với tác động của quá trình đô thị hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi , xây
dựng các nhà máy khu công nghiệp, khu dân c, xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn, do thiên tai lũ lụt sói mòn, nở đất ... Mỗi năm nớc ta giảm hơn 2 vạn ha đất
nông nghiệp. Mặt khác dân số nớc ta ngày càng tăng. theo kết quả tổng điều tra
dân số ngày 1/4/1999, cả nớc có 76,3 triệu ngời, trong đó số lao động ở nông
thôn chiếm 76,5%. So sánh giữa hai thời điểm điều tra dân số năm (1989 -1999),
trong vòng 10 năm dân số nớc ta tăng gần 12 triệu ngời, đồng thời mật độ dân số
phân bố không đồng đều giữa các vùng (đồng bằng sông Hồng 1.180 ngời/km2;
đồng bằng sông Cửu Long 408 ngời/km2; vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ 60
ngời/km2).
So sánh sự biến động giữa hai yếu tố đất nông nghiệp và dân số những năm
gần đây cho thấy từ năm 1995 đến 1998, đất nông nghiệp cả nớc tăng bình quân
mỗi năm 178,8 ngàn ha, tăng 0,6%/năm. Trong khi đó tốc độ tăng dân số mỗi
năm là 1,7%/năm, số lao động mỗi năm tăng trên 1 triệu ngời (năm 1998 / 1997
tăng 1,25 triệu ngời ) , dẫn đến diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu ngời
giảm xuống còn 1,1%/năm .Mặt khác trong những năm gần đây do sự mở rộng
các khu công nghiệp,các khu đô thị.Do đó diện tích đất nông nghiệp ngày càng
giảm đi trong khi đó số lợng lao động mỗi năm ngày càng tăng . Do đó không đủ
việc làm để cân đối cho số lao động tăng thêm và gần chục triệu lao động đang
thiếu việc làm ở nông thôn.
Hai là : Nông nghiệp có tính thời vụ cao đã tạo ra một thời gian nhàn rỗi lớn
lao động nông thôn
Ba là : Do sự đa dạng hoá của nông nghiệp còn ở mức thấp, cùng với sự
phát triển thấp kém của công nghiệp, thơng mại, dịch vụ và các hoạt động sản
xuất phi nông nghiệp trong nông thôn là một nguyên nhân căn bản đã hạn chế
mở rộng việc làm trong khu vực này.
2.2.1.2 Tình trạng thiếu việc làm của lao động nông thôn
Lao động trong nông thôn đợc phân bố không đồng đều giữa các vùng trong
cả nớc.
Bảng 2 : Lao động thiếu việc làm các vùng ở nông thôn và cả nớc.
Đơn vị tính : 1.000 ngời
1993
1994
Số
lợng
% so
với
l.ực
lợng
LĐ
nông
thôn
Số
lợng
% so
với
l.ực
lợng
LĐ
nông
thôn
18,9
4225
20,2
7240
526
13,0
680
16,4
ĐB S.Hồng
898
22,6
1077
Bắc trung Bộ
757
28,3
Duyên Hải
380
Tây nguyên
1998
Số
lợng
Số
lợng
% so
với
l.ực
lợng
LĐ
nông
thôn
24,9
7378
25,5
8220
28,2
958
17,1
1165
20,9
1214
14,8
24,8
1744
28,3
1762
29,0
2300
28,0
832
29,8
1108
26,5
1195
28,6
1352
16,5
20,0
414
21,3
778
26,2
851
29,2
723
8,8
14
11,9
20
2,6
273
24,3
154,7
13,9
160,2
2,0
Đ. Nam Bộ
314
21,7
329
22,5
472
19,8
512
21,2
361
7,7
ĐB sông
994
17,3
1003
17,6
1953
29,0
1731
26,0
1840
22,4
Cả nớc
Miền núi và
3883
1997
% so
với
l.ực
lợng
LĐ
nông
thôn
Các vùng
Kinh tế
% so
với
lực
lợng
LĐ
nông
thôn
1996
Số
lợng
Trung du
Miền trung
Cửu Long
Nguồn: Số liệu thống kê thực trạng lao động - việc làm của Bộ lao động thơng binh xã hội các năm 1993,1994,1996,1997,1998.
Qua bảng trên ta thấy số lợng lao động nông nghiệp,nông thôn giữa các
vùng phân bố không đồng đều, nếu Đồng bằng sông Hồng 2300 ngàn ngời cao
nhất thì Tây Nguyên chỉ có 160,2 ngàn ngời thấp nhất trong cả nớc (năm 1998).
Trong khi đó cả nớc năm 1993 có 3883 ngàn ngời(chiếm 18,8%) thì năm 1998
cả nớc có 8220 ngàn ngời (chiếm 28,2%) tăng 4337 ngàn ngời. Qua đó có thể
kết luận rằng lao động thiếu việc làm khu vực nông thôn gày càng tăng nhanh
nếu không có giảI pháp khắc phục thì gây hậu quả không nhỏ đến sự phát triển
kinh tế- xã hội .
- Xét theo cơ cấu ngành kinh tế thì số lợng và tỉ lệ lao động thiếu việc làm ở
khu vực nông thôn đợc phân bổ nh sau:
Ngành sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp có 6.991.718 ngời, chiếm
85,06% ; ngành công nghiệp chế biến có 327.053 ngời, chiếm 3,98%; ngành thơng nghiệp sửa chữa xe có động cơ có 168.395 ngời chiếm 2,05% ; ngành thuỷ
sản có 118.329 ngời chiếm 1,44%. Còn lại là các ngành khác chiếm tỉ lệ từ 0,1 1%. Qua số liệu trên có thể thấy đợc, số ngời thiếu việc làm ở khu vực nông thôn chủ
yếu vẫn nằm ở khu vực nông nghiệp.
Trong cơ cấu chia theo thành phần kinh tế thì số ngời 15 tuổi trở lên hoạt
động kinh tế thờng xuyên thiếu việc làm nông thôn chủ yếu tập trung ở thành thị
kinh tế ngoài quốc doanh (theo số liệu điều tra năm 1998 thì khu vực ngoài quốc
doanh là 8.083.320 ngời chiếm 98,34%,tiếp đến khu vực quốc doanh có 112.305
ngời, chiếm 1,36% ). Các khu vực thành phần kinh tế khác chiếm 1 tỉ lệ không
đáng kể. Nếu so với năm 1997 số ngời thiếu việc làm ở nông thôn thuộc khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh tăng 210,74%, với mức tăng tuyệt đối là 787.009 ngời.
Khu vực quốc doanh tăng 106,18%, với mức tăng tuyệt đối là 57.835 ngời. Khu
vực kinh tế nớc ngoài tăng 332,59%, với mức tăng tuyệt đối là 4.509 ngời. Sự
tăng lên nhanh chóng của lao động thiếu việc làm ở khu vực ngoài quốc doanh
(từ 43,04% năm 1996 lên 98,34% năm 1998) chứng tỏ khu vực này đang gặp
nhiều khó khăn trong tạo việc làm cho ngời lao động.
Mặt khác, theo điều tra số ngời thiếu việc làm ở khu vực nông thôn năm
1997 chủ yếu vẫn là lao động hộ gia đình, (có 3.446.346 ngời chiếm 46,70% so
với tổng số lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn). Tiếp đến là chủ kinh
tế hộ và chủ các công việc tự làm (có 2.870.724 ngời chiếm 38,90%); ngời làm
công ăn lơng (có 904.594 ngời chiếm 12,60%) ; Các loại khác chiếm tỉ lệ không
đáng kể.
Bảng 3 : Phân bổ lao động nông nghiệp, nông thôn theo các vùng kinh tế và
cả nớc:
Năm 1996
Vùng kinh tế
Năm 2000
Nông Lâm
CN &
Dịch vụ
Nông Lâm
CN &
Dịch vụ
Ng (%)
XD (%)
(%)
Ng (%)
XD %)
(%)
Cả nớc
81,64
6,83
11,53
77,66
8,86
14,48
ĐB sông Hồng
85,21
6,29
8,5
75,00
11,08
13,92
Đông Bắc
92,42
2,41
5,17
90,23
3,51
6,26
Tây Bắc
97,84
0,1
2,06
95,68
0,88
3,45
Bắc Trung bộ
86,30
5,51
8,19
78,76
9,03
12,22
Duyên Hải
80,28
7,28
12,44
74,94
9,70
15,35
Tây nguyên
89,65
2,99
7,36
90,24
2,08
7,68
Đông nam bộ
63,43
16,32
20,25
60,50
15,94
23,56
ĐB sông C.long
73,21
8,19
18,6
70,01
9,36
20,63
miền Trung
Nguồn : điều tra lao động việc làm toàn quốc năm 1996 - 2000 của Bộ lao
động thơng binh xã hội .
Qua bảng trên ta thấy tình hình phân bổ lao động nông nghiệp,nong thôn
giữa các vùng trong cả nớc rất khác nhau.Nếu năm 1996 ở đồng bằng sông Hồng
phân bổ lao động Nông -Lâm- Ng nghiệp là 85,21% thì đồng bằng sông Cửu
Long là 73,21%,thấp hơn 8% so với đồng bằng sông Hồng và 8,43% so với cả nớc.Trong khi đó ở Tây Bắc chiến tới 97,84% cao nhất trong cả nớc.Năm 2000 tỉ
lệ lao động trong Nông -Lâm-Ng của đồng bằng sông Hồng là 75% thấp hơn
mức trung bình của cả nớc 2,66%(cả nớc 77,66%),khi đó đồng bằng sông Cửu
Long là 70,01% thấp hơn 4,09%so với đồng bằng sông Hồng và 7,65%so với cả
nớc.
Nguyên nhân chủ yếu của sự phân bổ lao động nông nghiệp ,nông thôn
không đồng đề trên là do tình hình kinh tế xã hợi giữa các vùng không đồng đều.
Việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn đã đợc
Đảng và Nhà nớc đề ra từ nghị quyết TW5 (khoá VIII ) năm 1997. Từ đó đến
nay quá trình chuyển dịch đã diễn ra với quy mô và tốc độ khác nhau nhng nói
chung là chậm. Từ cuối năm 2000 và nhất là đầu năm 2001 Chính phủ đã có
nhiều chủ trơng giải pháp để khắc phục tình trạng đó, nên bớc đầu đã đạt đợc
những kết quả đáng khích lệ, cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động
nông nghiệp đã có bớc chuyển đổi tích cực và rõ nét. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông
thôn đã diễn ra trên phạm vi cả nớc, nhất là các vùng nông thôn ven đô thị, ven
các khu công nghiệp và các vùng có nhiều ngành nghề truyền thống, vùng sản
xuất nông sản phẩm hàng hoá tập trung. ở Đông Nam Bộ, do quá trình công
nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh, các khu công nghiệp và khu chế xuất phát triển
mạnh, lại có khu kinh tế trọng điểm phía nam, nên quá trình và kết quả chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn diễn ra nhanh hơn các vùng khắc.
Năm 1994, cơ cấu ngành nghề lao động nông thôn vùng này là 61% là nông
nghiệp, 39% là công nghiệp và dịch vụ. Đến năm 2001 hai tỉ lệ này tơng ứng là
40% và 60%, cơ cấu kinh tế nông thôn tính theo giá trị sản xuất cũng chuyển
dịch theo hớng tiến bộ, tỉ trọng nông nghiệp giảm từ 57% xuống còn 45%, tỉ
trọng các ngành công nghiệp tăng từ 43% lên 65% trong thời gian tơng ứng. ở
các vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn đã hình thành các trung tâm công
nghiệp chế biến và dịch vụ ở nông thôn nh các nhà máy say sát gạo, đánh bóng
gạo xuất khẩu ở Cần thơ, An giang, Tiền giang; chế biến hạt điều ở Bình Dơng;
chế biến và đánh bóng cà phê ở Tây Nguyên; sơ chế cao xu ở Đông Nam Bộ;
cụm công nghiệp nông thôn ở Hoà an (chợ mới - An giang), với bình quân 50
máy chế biến gạo xuất khẩu đã thu hút 70% số lao động nông nghiệp sang làm
công nghiệp và dịch vụ. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng có hơn 9 làng
nghề, những năm gần đây đã đợc khôi phục và phát triển mạnh, tạo việc làm phi
nông nghiệp cho hàng chục vạn lao động nông thôn, góp phần tạo nhiều sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ phi nông nghiệp, trực tiếp tham gia vào quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn trong vùng. Cho đến
nay, cơ cấu kinh tế nông thôn trong cả nớc đã chuyển dịch từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp với mức độ từ 1 - 5%/năm. Nếu năm 1994 cơ cấu kinh tế nông
thôn là 71% nông nghiệp, 29% công nghiệp và dịch vụ thì đến năm 2001 hai tỷ
lệ tơng ứng là 62 và 38%. Tỉ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 80% xuống
còn 70%, và lao động công nghiệp cũng tăng từ 20% lên 30% trong thời gian tơng ứng.
Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn
nh trên là rất chậm, đến nay kinh tế nông thôn về cơ bản vẫn là nông nghiệp, lao
động nông thôn vẫn cha đợc giải phóng khỏi ruộng đất, nên năng suất hàng hoá
và thu nhập của ngời nông dân còn thấp, tăng chậm. ở vùng đồng bằng sông
Hồng, Duyên Hải Miền Trung và miền núi phía Bắc tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động vẫn còn diễn ra rộng hơn. tình trạng sản xuất nhỏ manh mún,
tự phát, tự cung, tự cấp vẫn còn phổ biến, sản xuất hàng hoá và ngành nghề dịch
vụ phi nông nghiệp vẫn phát triển quá chậm cha tạo ra thị trờng để thu hút lao
động nông nghiệp, nông thôn . Do vậy tỷ lệ lao động nông thôn thiếu việc làm
vẫn cao và cha có khả năng giảm đáng kể.
- Về khả năng thu hút lao động của các ngành kinh tế nông thôn :
Theo báo cáo của cục chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản thuộc Bộ nông nghiệp
và phát triển nông thôn có khoảng 10,88 triệu lao động phi nông nghiệp (gồm cả
lao động nông nghệp kiêm ngành nghề khác). Giả xử trong lao động kiêm nông
nghiệp có 1/2 thời gian là nông nghiệp còn 1/2 thời gian làm phi nông nghiệp thì
số lao động là nông nghiệp ở nông thôn còn 65% so với tổng số ngời phi nông
nghiệp ở nông thôn, tơng ứng với 17 triệu ngời. năm 2001 có khoảng 21 triệu
lao động ở nông thôn có việc làm, trong đó sản xuất nông nghiệp đã giải quyết
đợc khoảng 14 triệu lao động và các ngành nghề khác thu hút đợc 7 triệu lao
động. Vì vậy số lao động d thừa không có việc làm ở các vùng nông thôn cả nớc
năm 1998 khoảng 7,11 triệu ngời, chiếm 25,3% số ngời có nhu cầu lao động ở
nông thôn.
Dự báo dân số cả nớc năm 2005 là 85 triệu ngời, trong đó số ngời trong độ
tuổi lao động ở nông thôn khoảng 38 triệu ngời.
Năm 2002 các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn ớc tính thu hút đợc
7,5 8 triệu lao động, nghĩa là số ngời cha có việc làm sẽ là 7,03 triệu, tơng ứng
với tỉ lệ thấp nghiệp là 24,7%. dự báo do tác động của quá trình đô thị hoá và
năng xuất lao động trong nông nghiệp ngày càng tăng đã thúc đẩy các ngành,
nghề ở nông thôn phát triển,do vậy bình quân hàng năm khu vực phi nông
nghiệp ở nông thôn sẽ thu hút khoảng 50 vạn lao động nâng số lợng lao động phi
nông nghiệp ở nông thôn lên 12,5 triệu đến 13 triệu ngời vào năm 2010.
2.2.1.3 Năng suất lao động ở nông thôn
Năng suất lao động là một chỉ tiêu về mặt chất đánh giá hiệu quả sử dụng
lao động ở nông thôn, hơn nữa sự gia tăng năng suất lao động trong nông nghiệp
là một tiền đề để thực hiện phân công lại lao động trong khu vực nông thôn và
các ngành khác. Sự tăng năng suất lao động nông nghiệp đợc thể hiện bảng dới
đây:
Bảng 4 : Năng suất lao động nông nghiệp qua các năm .
Năng suất
Giá trị T.sản
Năng suất
lúa
lợng
LĐ
(tr.tấn)
(tạ/ha)
(tỷ.đ)
1000đ/ngời
1996
29,2
37,7
86489,3
3487,47
1997
30,6
38,8
92530,2
3642,92
1998
31,8
39,6
95872,5
3745,23
1999
33,8
40,8
102900,0
3869,66
Năm
SL lơng thực
Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 271 tháng 12/2000.
Qua các số liệu bảng trên cho thấy năng xuất của bình quân cả năm tăng từ
87,7 tạ/ha năm 1996 lên 40,8 tạ/ha năm 1999. Trong Nông nghiệp Việt Nam
ngành trồng trọt chiếm 75% giá trị tổng sản lợng, nông nghiệp và lúa là cây
trồng chính chiếm hơn 70% diện tích gieo trồng và hơn 90% giá trị tổng sản lợng ngũ cốc). Do vậy tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng làm tăng giá trị
tổng sản lợng ngành nông nghiệp của Việt nam. thực tế cho thấy thời gian qua
sản lợng lúa của nớc ta tăng từ 29,1 triệu tấn năm 1998 lên 31 triệu tấn năm
1999. Nh vậy, cùng với việc mở rộng diện tích đất gieo trồng, sản lợng lúa tăng
nhanh là do đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất.
Do sản lợng lơng thực tăng với tốc độ 5% năm, cao hơn mức độ tăng dân số
1,7%, nên lơng thực bình quân đầu ngời cũng tăng qua các năm từ 327 kg năm
1995 ; 408 kg năm 1998 ; 440 kg năm 1999... Giá trị tổng sản lợng nông nghiệp
cũng tăng nhng tốc độ tăng lao động nông nghiệp gần nh tơng đơng. Nên hiệu
quả sử dụng lao động trong ngành nông nghiệp vẫn ở mức thấp là nguyên nhân
cơ bản dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp rất thấp và kém xa năng xuất lao
động trong các ngành kinh tế khác.
Mặt khác, năng suất lao động nông nghiệp thấp còn phụ thuộc vào chất lợng của lực lợng lao động trong khu vực này. Các kết quả tính toán cho thấy :
Năng suất sẽ tăng 7% nếu chủ hộ có học vấn ở mức độ nào đó và tăng lên tới
11% nếu tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Trình độ học vấn của ngời lao động sẽ cho
phép họ dễ dàng tiếp thu đợc những kiến thức từ các chơng trình khuyến nông là
cơ sở làm tăng gấp đôi sản lợng nông vụ.
Hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp kém còn thể hiện ở mức độ đa dạng
hoá sản xuất nông nghiệp của Việt nam rất hạn chế. Trong suốt thời kỳ 1990 1997 thóc gạo vẫn chiếm tới 50% giá trị sản lợng nông nghiệp. Kinh nghiệm
phát triển của nhiều nớc cũng chỉ ra rằng việc đa dạng hoá cây trồng là nhân tố
quan trọng nhất mang lại thu nhập nông nghiệp lớn hơn và tăng việc làm cho ngời lao động ở khu vực này. Bởi vì so với lúa gạo, những loại cây trồng khác
(không phải ngũ cốc) cần số giờ lao động trên 1 ha nhiều hơn từ 2-3 lần. Hơn
nữa, việc sản xuất chúng lại không bị nhu cầu tiêu dùng tại địa phơng hạn chế,
dẫn đến việc thơng mại hoá các sản phẩm nông nghiệp và nh vậy lại cần thêm
lao động để chế biến và tiêu thụ. Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ các loại cây
trồng có thu nhập thấp sang loại cây trồng có thu nhập cao là nhân tố quan trọng
để tăng thu nhập và năng suất trong khu vực nông nghiệp.
Năng suất lao động nông nghiệp thấp không những chỉ do việc sử dụng thời
gian lao động rất hạn chế mà sản xuất Nông nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào lao
động thủ công với năng suất lao động thấp ngay nh khâu làm đất rất nặng nhọc,
việc cơ giới hoá đa máy móc vào sản xuất cũng chỉ chiếm 30% diện tích. Sức ép
về lao động quá lớn trên diện tích đất đai nhỏ hẹp, manh mún là nguyên nhân
chính hạn chế việc ứng dụng máy móc trong Nông nghiệp hiện nay, sự manh
mún đất đai đã làm giảm hiệu quả sử dụng lao động và vốn đầu t vì ngời nông
dân phải dành khá nhiều thời gian đi lại và thuyên chuyển công cục lao động,
thiết bị từ mảnh đất này đến mảnh đất khác. Mặt khác độ lớn diện tích đất danh
tác cũng hạn chế tiềm năng thu nhập của ngời nông dân. Mặc dù sản lợng trên 1
ha ở đồng bằng sông Hồng cao hơn nhiều so với bất cứ vùng nào trong cả nớc
nhng phạm vi để chuyển đổi cao hơn thành mức sống cao hơn thờng bị giới hạn
ở quy mô trang trại. Do đó, mà giá trị trung bình về sản lợng trên 1 trang trại là
cao nhất ở đồng bằng sông Cửu long bởi vì quy mô trang trại ở đó lớn hơn rất
nhiều.
Kết quả các cuộc điều tra cho thấy, để sản xuất 1 tấn lúa, chi phí lao động
mất gần 100 ngày công nhng trong chăn nuôi thịt chi phí 1 kg tăng trọng chỉ mất
0,44 ngày công .... Điều đó cho thấy năng suất lao động nông nghiệp thấp kém
đã hạn chế đến việc tái sản xuất của chính nông nghiệp do thặng d nông nghiệp
ít và là nguyên nhân chính hạn chế mở rộng việc làm sang lĩnh vực khác của nền
kinh tế.
2.2.2. Thực trạng đời sống lao động nông nghiệp, nông thôn
Do dân số và lao động nông thôn tăng nhanh, năng suất lao động thấp kém,
bởi vì mức thu nhập của dân c rất thấp, khả năng tích luỹ của họ đặc biệt là tích luỹ
vốn rất ít làm hạn chế lớn đến khả năng tạo việc làm trong nông thôn. Cuộc điều tra
mức sống tiến hành năm 1992 - 1993 và số liệu điều tra của tổng cục thống kê cho
thấy mức thu nhập bình quân đầu ngời một tháng ở nông thôn là 148,1 ngàn đồng
năm 1994. Có 20,6% số hộ thu nhập không đủ thanh toán khẩu phần ăn duy trì
cuộc sống ; 21,55% số hộ thu nhập dới mức trung bình và 32,62% số hộ có thu
nhập trung bình ; 18,13% số hộ có thu nhập khá và chỉ có 7,1% số hộ có thu nhập
cao. Nh vậy số hộ có thu nhập dới mức trung bình và không đủ ăn chiếm tới
42,15% số nghèo ở vùng nông thôn là 57% và gấp 2 lần so với số nghèo ở thành thị,
cho nên khoảng 90% ngời nghèo sống ở khu vực nông thôn.
Bảng 5 : Thu nhập dân c cả nớc qua các năm
(Đơn vị:1000đ)
Khu vực/năm
1994
1995
1996
1999
1. Thành thị.
359,7
452,8
509,4
832,5
Nhóm thu nhập thấp nhất
127,5
147,2
158,4
200,0
Nhóm thu nhập cao nhất
886,0
1135,5
1266,5
1960,8
2. Nông thôn
141,1
172,5
187,9
225,0
Nhóm thu nhập thấp nhất
59,0
70,3
73,5
83,0
Nhóm thu nhập cao nhất
318,2
410,2
451,6
523,0
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt nam số 37, ngày 26/3/2001.
Một điều dễ nhận thấy là thu nhập bình quân một ngời một tháng ở thành
thị cũng nh ở nông thôn, của nhóm thu nhập thấp cũng nh nhóm có thu nhập cao
đều tăng lên.Nếu năm 1994 thu nhập bình quân một ngời/tháng ở thành thị là
359,7ngàn đồng thì năm 1999là 832,5 ngàn đồng .Còn khu vực nông thôn thu
nhập từ 141,1 ngàn đồng /ngời /tháng năm 1994 thì tăng lên 225 ngàn đồng /ngời /tháng vào năm 1999.
Bảng 6 : Thu nhập bình quân đầu ngời trên tháng ở khu vực thành thị và
nông thôn qua các năm.
(Đơn vị: %)
1995
1996
1999
1. Thành thị.
125,9
141,6
231,5
Nhóm thu nhập thấp nhất
115,4
124,2
156,8
Nhóm thu nhập cao nhất
128,2
142,9
121,3
2. Nông thôn
122,2
133,1
159,4
Nhóm thu nhập thấp nhất
119,1
124,7
140,8
Nhóm thu nhập cao nhất
128,9
141,9
164,4
Nguồn : Thời báo kinh tế số 37 /2001.