1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

3 Đánh giá chung về vấn đề giải quyết việc làm trong nông nghiệp, nông thôn trong thời gian qua ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.74 KB, 83 trang )


62.700 hộ nghèo vay với số vốn là 99 tỉ đồng, Bắc Ninh cho 50 ngàn hộ vay với

số vốn là 67 tỉ đồng, Cần thơ cho 27.100 hộ vay với số vốn 34,5 triệu đồng, Bắc

Giang cho 5.500 hộ vay với số vốn 13 tỉ đồng ...

Tuy nhiên, số ngời thiếu việc làm và không có việc làm vân chiếm tỉ lệ cao

và có xu hớng gia tăng. Tỉ lệ sử dụng thời gian lao động của dân số hoạt động

kinh tế thờng xuyên từ 15 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn còn thấp. Cả nớc

chiếm 70,88%; Đồng bắng sông Hồng 72,01%; Đông bắc 66,83%; Tây bắc

66,35%; Bắc trung bộ 68,96%; Tây nguyên 76,97%; Đông Nam bộ 74,46% và

Đồng bằng sông Cửu long 71,32%.

Do nhiều nguyên nhân nên tác dụng và hiệu quả của các chơng trình và đề

án cha cao. Đồng vốn từ TW về đến ngời dân nông thôn còn qua nhiều cửa ải,

nhiều cấp trung gian nên hao hụt thất thoát lớn, phơng án sử dụng lại không cụ

thể. Trồng cây gì, nuôi con gì, mở mang ngành nghề dịch vụ nào để thu hút lao

động tạo thêm việc làm, thêm sản phẩm hàng hoá vẫn còn là ẩn số cha đợc các

ngành, các cấp quan tâm. Phải chăng nguyên nhân cơ bản là chúng ta cha có

chiến lợc lâu dài về lao động và việc làm ở nông thôn ở tầm vĩ mô ? Chơng trình

dự án đã và đang thực hiện chỉ có tính chất chắp vá, nhất thời nhằm giải quyết

những yêu cầu bức xúc trớc mặt của một bộ phận lao động nông thôn ở một

vùng cụ thể.Cho đến nay vấn đề việc làm vẫn đang là vấn đề bức xúc của xã hội,

nhất là nớc ta bớc vào kế hoạch 5 năm (giai đoạn 2001 - 2005 ) thì đối tợng giải

quyết việc làm không chỉ bó gọn trong 6 - 7% lao động xã hội cha có việc làm

mà thực chất còn có tới 2,5 triệu lao động thất nghiệp ở thành thị, khoảng 9 triệu

lao động ở nông thôn thờng xuyên thiếu việc làm. Ngoài ra hàng năm có khoảng

1,2 triệu lao động đến tuổi lao động cần việc làm phần lớn là ở nông thôn. Nh

vậy, trong 5 năm (2001 - 2005) cần giải quyết việc làm cho khoảng 6,5 triệu lao

động phân chia theo các đối tợng sau:

- Thanh niên đến tuổi lao động không đi học tiếp : 4,5 triệu ngời ; học sinh

tốt nghiệp các trờng chuyên nghiệp 60 vạn ngời.

- Lao động nông thôn bị mất đất canh tác khoảng 50 vạn ngời.

- Đối tợng xã hội hết hạn cải tạo khoảng 30 vạn ngời.



- Công nhân viên chức không có việc làm khoảng 10 vạn ngời.

- Còn lại là các đối tợng khác khoảng 50 vạn ngời.

2.3.2 Những tồn tại ,nguyên nhân và hậu quả xã hội

2.3.2.1 Những tồn tại và thách thức đặt ra xung quanh vấn đề giải quyết việc làm

Một là : Trong khi nguồn nhân lực, lao động tiếp tục ra tăng, nhu cầu việc

làm đặt ra gay gắt thì tiềm năng đất đai tài nguyên và các nguồn lực phát triển

khác ở nông thôn lại cha đợc khai thác đầy đủ và sử dụng có hiệu quả. Cơ cấu

nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi chậm, sản xuất hàng hoá và thị trờng cha phát triển.

Hiện nay cả nớc còn khoảng 9 triệu ha đất trống đồi núi trọc, 3-4 triệu ha

đất có khả năng nông nghiệp và hàng chục vạn ha mặt nớc, bãi bồi cha đợc khai

thác và sử dụng. Hệ số sử dụng đất canh tác trung bình mới đạt khoảng từ 1,4 1,5 lần, nhiều nơi mới canh tác một vụ trên năm. Khả năng thâm canh, tăng năng

xuất và đa dạng hoá vật nuôi cây trồng còn rất lớn, nhng cha đợc khai thác triệt

để. Năng xuất lúa mặc dù đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây và đạt

tời 36,8 tạ/ha vào năm 1995. Nhng còn thấp xa so với nhiều nớc trên Thế giới và

một số nớc trong khu vực. Tiềm năng phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế biển,

chăn nuôi và nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản cũng rất đa dạng, nếu đợc khai

thác đúng mức có thể tạo ra khối lợng việc làm lớn, có hiệu quả trong nông thôn.

Song trên thực tế, ứng sử việc của ngời dân và lao động cha tác động tự sát của

thị trờng và nhu cầu cuộc sống đã nâng lên. Do đó đã dẫn đến tình trạng khai

thác bừa bãi các tiềm năng, nguồn lực nói trên. Tài nguyên rừng, biển và các

nguồn lực tự nhiên trên nhiều vùng nông thôn có nguy cơ cạn kiệt, môi trờng

sinh thái bị phá vỡ. Vậy sử dụng nguồn nhân lực nông thôn trong thời gian tới sẽ

phải giải quyết mối tơng quan giữa các nguồn lực này nh thế nào. Đây là một bài

toán mà lời giải thật là không đơn giản.

Hai là : Công cuộc đổi mới đã xác lập kinh tế hộ gia đình là một đơn vị

kinh tế tự chủ và là đơn vị tổ chức sản xuất, tổ chức phân công lao động cơ bản ở

nông thôn, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển. Sự



năng động của kinh tế hộ và lao động ở khu vực này đã tạo ra một khối lợng việc

làm rất lớn, đặc biệt là việc phát triển kinh tế VAC, phát triển các ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, kinh tế hộ và các loại hình kinh tế

khác ở nông thôn cho đến nay vẫn còn nhiều mặt hạn chế, đa số vẫn là sản xuất

nhỏ, tự cung tự cấp khả năng tích luỹ để đầu t phát triển và mở rộng việc làm còn

thấp xa so với nhu cầu thực tế. Một bộ phận đáng kể các hộ bị thiếu hụt hoặc

không hội tụ đợcc các yếu tố và các điều kiện cần thiết để tổ chức sản xuất kinh

doanh và tạo ra việc làm. ở nhiều vùng nông thôn có tới 70 - 80% hộ nông dân

thiếu vốn; 50 - 60% thiếu đất canh tác và phơng tiện sản xuất; 25 - 30% thiếu

kiến thức, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh...

Do vậy, tình trạng và nguy cơ thiếu việc làm ở các hộ này đặt ra bức xúc, ít

có cơ hội cải thiện. Cùng với nó là xu hớng phân hoá giàu nghèo, phân tầng mức

sống và những hệ quả xã hội khác.

Ba là : Do áp lực việc làm và thu nhập đã tạo ra xu hớng di chuyển

lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị và đến vùng nông thôn khác. Theo kết

quả điều tra 23 xã đồng bằng sông Hồng số lao động tự phát đi làm ăn và tìm

kiếm việc làm ở nơi khác từ 6 tháng trở lên chiếm tới 4% tổng số lao động của

các xã nói chung. Tỉ lệ này ở nhiều nơi lên tới 10 - 12%. đó là ch a kể số ngời di

biến động thờng xuyên dới 6 tháng.

Trong những dòng ngời tìm kiếm việc làm ở thành thị nhiều ngời có việc

làm thờng xuyên và thu nhập khá hơn so với nông thôn. Nhng đa phần trong số

họ không có việc làm ổn định, thu nhập và điều kiện sinh hoạt bấp bênh đợc thể

hiện qua bảng sau.

Bảng 9 : Tổng ngời lao động các địa phơng hoạt động theo thời vụ

ở Hà Nội (%) :

Nơi đến



Nơi xuất phát

Quận Đống Đa



Thanh Hoá



43,6



Quận hai Bà Trng



11,6



Hà Tây



17,3



13,8



Thái Bình



15,2



9,1



Hải Phòng



1,4



11,2



Sóc Sơn và Đông Anh (HN)



0,9



6,3



Nguồn : Niên giám thống kê năm 1997

Nh qua bảng ta thấy đa số những ngời lao động theo thời vụ ở Hà Nội đến từ

các tỉnh Thanh Hoá, Hà Tây, Thái Bình, hầu hết ngời lao động theo thời vụ là

những nông dân thuộc các tình đồng bằng sông Hồng. Gần nh không thấy sự hiện

diện của những ngời thiểu số, miền núi trong số lao động thời vụ ở Hà Nội.

Sự dịch chuyển lao động theo hớng này trên thực tế đã góp phần làm tăng

tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp vốn cũng rất trầm trọng ở khu vực

thành thị, đồng thời làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác nh nạn cờ

bạc, ma tuý, mại dâm ...

Việc di dân tự do và tìm kiếm việc làm tự phát ở những vùng đất mới cũng

dẫn đến những hệ quả khó kiểm soát, vì phần lớn trong số họ thuộc diện nghèo,

thiếu phơng tiện sản xuất và hoạt động chủ yếu là khai thác tự nhiên góp phần làm

suy thoái tài nguyên môi trờng. Đây là một thách thức lớn đang đợc đặt ra.

Bốn là : Sự chuyển biến chậm chạp của cơ cấu kinh tế nông thôn. Điều này

thể hiện :

- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp cha thoát khỏi tình trạng độc canh, tự cấp, tự

túc và trình độ sản xuất hàng hoá nhỏ là chủ yếu. Công nghiệp và dịch vụ phi

nông nghiệp nông thôn tuy có khởi sắc ở một số vùng và địa phơng, ngành nghề

nông thôn đợc khôi phục và mở rộng nhng còn mang nặng tính tự phát, thiếu quy

hoạch định hớng và cha đợc quan tâm đúng mức cả trong nhận thức và hành

động. Nhóm ngành phi nông nghiệp ở nông thôn phát triển không đồng đều chỉ

tập trung vào những vùng nông thôn ven đô thị, gần đờng giao thông, gần thị tr-



ờng, còn vùng sâu vùng xa, vùng miền núi vùng nghèo hầu nh cha chuyển đổi.

Chính là do sự phát triển quá chậm chạp của công nghiệp, dịch vụ nông thôn nên

trong suốt thời kỳ đổi mới nông nghiệp đã thu hút hầu nh toàn bộ lực lợng tăng

trởng của dân số và lao động nông thôn.

- Các thành phần kinh tế trong nông thôn tuy đợc pháp luật thừa nhận xong

vẫn còn những ràng buộc. Kinh tế hộ tự chủ đã có bớc phát triển cao nhng lực

nội sinh của kinh tế hộ cha đủ để vơn lên phát triển thành những hộ sản xuất

hàng hoá làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Gần đây, đã xuất hiện xu

hớng phát triển những trang trại gia đình sản xuất hàng hoá với những quy mô,

khối lợng và tỉ xuất hàng hoá khác nhau. Đây là xu hớng phát triển tất yếu của

kinh tế hộ. Quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất là điều kiện đầu tiên để thúc

đẩy phát triển kinh tế trang trại, cùng với xu hớng này lao động đợc giải phóng

khỏi khu vực nông nghiệp để phát triển những lĩnh vực khác của nền sản xuất xã

hội, thúc đẩy sự phân công lao động trong khu vực nông thôn. Thực tế cũng cho

thấy tác động tích cực của những động lực tạo ra từ những năm đổi mới cơ chế

quản lý đang đi dần đến đỉnh điểm của sự giới hạn và khả năng thu hút lao động

vào khu vực nông nghiệp là có hạn. Vì vậy một mặt cần tìm ra những động lực

mới trực tiếp cho phát triển nông nghiệp nông thôn, mặt khác cần phải giải toả

lao động khỏi khu vực nông nghiệp bằng những định hớng cơ cấu có hiêụ quả.

Năm là : Một mâu thuẫn lớn trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực

nông thôn đó là chất lợng thấp kém của ngời lao động.

Tuy nông thôn Việt nam có nguồn lao động dồi dào song phần lớn lực lợng

này là lao động thủ công cha qua đào tạo nghề, thiếu hiểu biết kỹ thuật, kinh

nghiệm và năng lực hoạt động trong cơ chế thị trờng (năm 1999 số lao động có



trình độ chuyển môn kỹ thuật ở nông thôn chỉ chiếm 8% tổng số lao động khu

vực, còn lại 92% lao động cha qua đào tạo).

Đây là sự cản trở rất lớn cho sự tiến bộ của khu vực này bởi vì quá trình đẩy

mạnh CNH-HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong bối cảnh chuyển sang nền

kinh tế thị trờng sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho ngời lao động, nhng đồng

thời cũng đòi hỏi một lực lợng lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao.

Chính sự bất cập này sẽ là một trở ngại lớn đối với tiến trình CNH, mở rộng cơ

hội việc làm trong nội tại kinh tế xã hội nông thôn.

Sáu là :Sự phát triển thấp kém, lạc hậu của kết cấu hạ tầng trong nông thôn

cũng đang là một rào cản lớn cho việc giao lu kinh tế thực hiện việc chuyển nông

nghiệp sang sản xuất hàng hoá, thay đổi cơ cấu sản xuất đa dạng hoá các hoạt

động kinh tế của lao động nông thôn.

Sự thập kém của kết cấu hạ tầng nông thôn là một khó khăn không dễ dàng

khắc phục bởi vì nó đòi hỏi một lợng vốn đầu t tơng đối lớn, đây thực sự là một

thách thức đối với phát triển kinh tế-xã hội nông thôn và giải quyết việc làm.

Bảy là : hiện nay, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã làm cho diện

tích đất đai của nông dân ngày càng thu hẹp dần do việc xây dựng các khu công

nghiệp ,khu đô thị mới .Tạo ra sự thiếu đất cho sản xuất nông nghiệp ngày càng

nhiều gây khó khăn cho vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn .

Tám là : Những chính sách giải pháp do nhà nớc ban hành nhằm tiếp tục

đổi mới và phát triển toàn diện kinh tế-xã hội nông thôn, đẩy mạnh CNH - HĐH

ở khu vực này, đồng thời tạo môi trờng và điều kiện cho việc tạo lập, mở rộng

việc làm của dân c còn hạn chế, không đồng bộ và cha khuyến khích đầu t phát

triển sản xuất, mở rộng việc làm.



Đầu t của nhà nớc cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn thấp cha đáp

ứng đợc nhu cầu đầu t thực tế để phát triển sản xuất kinh doanh đa dạng hoá

ngành nghề và việc làm. Tình trạng thiếu vốn, đói vốn diến ra khá phổ biến trên

nhiều vùng, đối với một bộ phận đáng kể dân c và lao động. Trong khi đó nhiều

dự án, chơng trình đầu t phát triển và hỗ trợ việc làm triển khai phân tán qua

nhiều hệ thống trung gian vừa làm thất thoát, vừa làm giảm tác dụng và hiệu quả

của vốn đầu t.

2.3.2.2 Nguyên nhân và hậu quả xã hội trực tiếp

- Nguyên nhân

Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp trong nông thôn có nhiều nguyên

nhân. Rõ nhất là do quỹ đất đai canh tác nông nghiệp nớc ta ít, thấp hơn nhiều so

với các nớc trong khu vực. Bình quân đất đai trên một nhân khẩu nông nghiệp là

1034m2 ; thấp nhất là đồng bằng sông Hồng 556m 2, khu bốn cũ 631m2, miền núi

và trung du phía Bắc 832m2, Duyên Hải miền Trung 849m2, Tây nguyên 1381m2,

Đông Nam Bộ 1757 m2 và đồng bằng sông Cửu Long 1917m2.

Bình quân đất đai cho một lao động nông nghiệp là 1983m 2, trong đó đồng

bằng sông Hồng là 1048m2, khu Bốn cũ là 1294m2, Duyên Hải Miền Trung là

1605m2, miền núi và Trung du phía Bắc 1679m 2, Tây nguyên 2764m2, Đông

Nam bộ 318m2, đồng bằng sông Cửu long 3462m2. Quỹ đất đai canh tác đã ít

nhng hàng năm phải lấy hàng chục vạn ha đất trồng lúa để xây dựng kết cấu hạ

tầng, các khu công nghiệp, khu chế xuất và mở rộng đô thị. ở nông thôn một số

vùng đã xuất hiện xu hớng tích tụ ruộng đất, số lao động thiếu đất và không có

đất tăng lên. Đối với đại bộ phận nông dân không có đất nghĩa là không có việc

làm thất nghiệp. Riêng các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu long đã có tới gần

1,4 triệu nông dân không có việc làm, đó là tiền đề về lao động để phát triển các



ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhng quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn lại diễn ra chậm chạp, ít

đợc hỗ trợ các điều kiện cần thiết nh vốn, tín dụng, thuế, tìm kiếm thị trờng...

Chủ yếu mới dừng lại ở việc khôi phục các làng nghề truyền thống; công nghiệp

nông thôn nhất là công nghiệp chế biến nông sản hàng hoá ít phát huy tác dụng,

không đủ sức dung nạp số lợng lao động d thừa.

Đa dạng hoá ngành nghề là một nhu cầu tất yếu góp phần đắc lực trong việc

giải toả áp lực việc làm, nhng cha đợc chú ý đúng mức. Từ năm 1988 đến năm

1996 số hộ và cơ sở ngành nghề tăng hàng năm từ 8,6 đến 9,8%, hai năm 1997 1998 đã tăng từ 10 lên 11% nhng vẫn thấp. Vì thế hiện nay ở nông thôn hộ thuần

nông còn quá cao chiếm 62,2%, hộ nông nghiệp kiêm ngành chiếm 26,55%, hộ

chuyên ngành nghề phi nông nghiệp gần 11,3% tổng số hộ nông thôn. Trong khi

đó, tỉ lệ sinh đẻ ở nông thôn còn quá cao trung bình một phụ nữ có khoảng từ 3,2

- 3,5 con, hàng năm có thêm khoảng trên 1 triệu ngời bớc vào độ tuổi lao động

càng làm cho áp lực về việc làm thêm gay gắt.

Nguồn nhân lực nông thôn đông về số lợng nhng còn hạn chế về chất lợng

chỉ có 30 - 35% tốt nghiệp trung học, 7,7% đợc qua đào tạo. Tính ra cứ 1000 lao

động nông thôn thì có 4,4 ngời đợc đào tạo kỹ thuật về nông-lâm-ng nghiệp.

Đáng chú ý là có tới 75% số hộ thuần nông và 90% số ngời ở độ tuổi phi nông

nghiệp không đợc đào tạo nghề, không có 1 chuyên môn kỹ thuật. Trong khi

tiến độ CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn đang diễn ra khá nhanh thì lao động

nông thôn đã qua đào tạo lại tăng hết sức chậm, hai năm 1997 - 1998 chỉ tăng

0,1%. Trong số lao động thất nghiệp ở nông thôn, tỉ lệ lao động nữ rất cao. Bởi lẽ

lao động nữ chiếm tời 70% lao động trong nông thôn nhng chỉ có 8% là tốt

nghiệp phổ thông trung học và trên 20% mũ chữ. Đặc biệt là lao động nữ nông



thôn hầu nh không đợc đào tạo tay nghề tập huấn kỹ thuật và họ có rất ít cơ hội

tìm kiếm việc làm mới, để cải thiện thu nhập và đời sống. Do hạn chế về chất lợng lao động cho nên cơ hội tìm kiếm việc làm của lực lợng lao động nông thôn

tới các khu công nghiệp khu chế xuất, khu thành thị hoặc đi lao động hợp tác với

nớc ngoài là rất khó.

Tóm lại : Nguyên nhân của các vấn đề trên là nhà nớc cha có chiến lợc lâu

dài và chính sách cụ thể đối với vấn đề việc làm và dạy nghề cho nông dân.

Trong thực tế cha có ngành địa phơng nào đặt và giải quyết vấn đề việc làm và

đào tạo nghề ở nông thôn nói chung. Vốn và cơ sở dạy nghề cho nông dân không

có, việc lồng ghép các chơng trình dự án trên địa bàn nông thôn với vấn đề việc

làm và dạy nghề cho nông dân cha đợc quan tâm đúng mức nên hiệu quả còn rất

hạn chế. Thêm vào đó ngời lao động nông thôn còn cha thực sự thích nghi với

quan hệ cung cầu lao động, còn ỷ lại và mang nặng tâm lý chờ đợi của thời bao

cấp. Vì thế thị trờng lao động nông thôn còn mang tính tự phát thiếu linh hoạt và

không theo kịp tốc độ tăng trởng kinh tế, phân công lại lao động xã hội trong

phạm vi toàn quốc.

- Hậu quả :

Thất nghiệp và thiếu việc làm trong nông thôn dẫn đến nhiều hậu quả tiêu

cực, phần lớn các hộ đói nghèo không có việc làm và thu nhập ổn định. Đây là

một trong những nguyên nhân làm rộng khoảng cách giữa hộ giàu và hộ nghèo,

đẩy nhanh tốc độ phân cực xã hội. Năm 1994 chênh lệch giữa hộ nghèo và hộ

giàu mới là 6,48 lần, năm 1995 là 6,99 lần, năm 1996 là 7,31 lần, năm 1997 là

7,37 lần, năm 1998 là 8,2 lần, năm 1999 8,5 lần. Hiện tợng này vẫn đang có xu

hớng gia tăng, phân hoá giàu nghèo về thu nhập tất yếu dẫn đến phân tầng trong



văn hoá giáo dục và nguy cơ mất việc làm của con em các hộ đói nghèo càng

lớn.

Về mặt xã hội thực trạng thiếu việc làm trong nông thôn đi liền với các tệ

nạn rợu chè, cờ bạc, trộm cắp, buôn lậu nhiễm các bệnh nan y, dung túng cho

nhiều hoạt động phi pháp. Phần lớn "cửu vạn" tiếp tay cho chủ buôn lậu dọc theo

tuyến biên giới phía Bắc và phía Tây Nam là những nông dân không có công ăn

việc làm hoặc có thu nhập thấp, không đảm bảo đời sống. Túng thiếu và do nhu

cầu mu sinh nên họ phải liều làm nên mặc dù biết đó là việc làm nhất thời sai trái,

vi phạm pháp luật. Nếu không giải quyết việc làm cho đối tợng này thì thật khó

mà ngăn chặn hữu hiệu nạn buôn lậu đang có xu hớng xé nhỏ và tinh vi hơn.

Một thực trạng rất đáng quan tâm tình hình thất nghiệp ở nông thôn đã và

đang hình thành một dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra các đô thị lớn vốn

đã quá tải và đang chịu áp lực lớn về lao động thất nghiệp. Riêng Hà nội đã đón

nhận trên 20 vạn ngời lao động từ các tỉnh xa chuyển về và không có cách gì ngăn

chặn quản lý đợc. Các tệ nạn xã hội cũng từ loại lao động này phát sinh. Theo số

liệu của Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình có tới 70 - 75% gái mại dâm

hoạt động tại các thành phố lớn từ các địa phơng đợc tuyển về. Nh vậy, thất

nghiệp trong nông thôn không chỉ là lãng phí sức lao động, kìm hãm tốc độ tăng

trởng kinh tế mà còn làm biến dạng các giá trị văn hoá truyền thống, huỷ hoại đạo

đức xã hội vì thế giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một nội dung quan

trọng trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội của đất nớc.



chơng 3



Những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải

quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông

thôn nớc ta hiện nay

3.1 Những quan điểm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông

thôn ở nớc ta hiện nay

Theo em, việc xác định các giải pháp nhằm thực hiện một cách có hiệu quả

phân công lao động và tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp nông

thôn nớc ta hiện nay cần dựa trên một số những quan điểm sau :

3.1.1 Giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nớc ta

hiện nay phải dựa chủ yếu vào các biện pháp tạo việc làm ngay trong

lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn

Bằng mọi cách, mọi chính sách để tạo ra một cơ cấu kinh tế trong nông

thôn thu hút nhiều lao động nông nghiệp, nông thôn tức là trong nông nghiệp

phải phát triển thêm một số ngành nghề sản xuất nông nghiệp có giá trị cao nhng

cần nhiều lao động (chẳng hạn nh 1 ha chè thâm canh năng xuất đạt 15 tấn/ha

thu hút đợc 10 lao động thu nhập trên 10 triệu đồng/ha...) đồng thời mở mang

nhanh công nghiệp dịch vụ, nhất là công nghiệp dùng nhiều lao động. Tuy nhiên,

phải đảm bảo một số ngành công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp, dùng ít vốn nhng cần nhiều lao động, chỉ phát triển tại nông thôn nh : Chế biến Nông-Lâm sản,

may mặc, giầy da, sản xuất vật liệu xây dựng (nh gạch, ngói ...).

Khai thác tiềm năng đất đai rừng, biển. Trong tơng lai gần có khả năng mở

đợc khoảng 100.000 ha đất trồng lúa, 1 triệu ha cây công nghiệp lâu năm, trồng

3 triệu ha rừng, nuôi trồng 2 triệu ha thuỷ sản ... sẽ thu hút đợc khoảng 5 triệu

lao động, tổng thu nhập quốc nội có thể tăng thêm 10 tỉ đô la/năm, có ý nghĩa

lớn về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên nếu làm theo hớng này

thì rất khó có thể triển khai nhanh và có hiệu quả. Bởi vì một trong những cách

làm tốt nhất là kêu gọi mọi ngời có vốn đợc nhà nớc giao đất bằng hình thức

khoán hoặc thuê hoặc cho phép các công ty có vốn đầu t và giành một phần diện

tích để nhà nớc giao cho hộ nghèo thực hiện các chính sách xã hội, cùng với



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

×