Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.74 KB, 83 trang )
vốn trong vấn đề giải quyết việc làm tác giả trình bày một hình thức vay vốn
nhỏ tạo việc làm ở Ba lan.
Vào thập kỷ 90 cùng với quá trình cải cách kinh tế và t nhân hoá một số
doanh nghiệp nhà nớc, số ngời thất nghiệp ở Ba lan tăng đáng kể, đến 1993 cả nớc có 3 triệu ngời thất nghiệp. Để thoát khỏi tình trạng này, bên cạnh việc thúc
đẩy các dịch vụ lao động, nhà nớc đặc biệt khuyến khích tinh thần tự tạo việc
làm, tạo lập doanh nghiệp nhất là quy mô nhỏ và rất nhỏ thông qua hệ thống tín
dụng với điều kiện u đãi.
Nguồn vốn vay đợc thành lập từ ngân sách nhà nớc, song cũng có sự tham
gia của quỹ địa phơng, ngân hàng phát triển kinh tế-xã hội, quý Quốc gia về
phục hồi chức năng cho ngời tàn tật, quỹ Nông nghiệp ... Tất cả các quỹ, các tổ
chức nói trên đều cho vay vốn để tạo việc làm mới sau một thời gian triển khai
chơng trình giai đoạn 1990 - 1997 có 140.000 dự án đợc vay vốn tạo việc làm
cho 300.000 ngời.
Đánh giá chính sách nói trên thấy nổi bật 2 u điểm đó là :
- Về phía ngời vay vốn hộ không chỉ tự tạo việc làm cho mình mà còn cho
cả ngời khác tự bỏ đợc mặc cảm, tâm trạng yếu thế khi thất nghiệp, củng cố lòng
tự tin.
- Về phía nhà nớc : Đạt đợc mục tiêu giảm thất nghiệp ; chuyển đổi khoản
chi tiêu thụ động từ trợ cấp thất nghiệp sang hình thái chi tiêu tích cực, chủ động.
Ngân sách cân bằng trở lại nhờ giảm trợ cấp thất nghiệp, tăng thu thuế giá trị gia
tăng.
Đến nay ở Ba Lan có 2,4 triệu doanh nghiệp trong đó 2,3 triệu thuộc khu
vực kinh tế t nhân với 2,1 triệu là loại nhỏ và rất nhỏ. Những doanh nghiệp này
thu hút hơn 11 triệu lao động và đóng góp 40% GDP.
3.3.2
Đẩy mạnh đào tạo bồi dỡng chuyên môn-kỹ thuật nhằm tăng nhanh
chất lợng của đội ngũ lao động nông thôn
dự báo năm 2002 dân số nớc ta khoảng 80 triệu ngời, nguồn nhân lực có
trên 46 triệu. Tổng số lao động nông thôn phải qua đào tạo năm 2000 vào
khoảng 5,2 triệu ngời (hiện tại số lao động đã qua đào tạo có trên 1,2 triệu ngời )
tức là bình quân mỗi năm và trong những năm tới phải đào tạo thêm trên 1 triệu
ngời. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn. Do vậy, trong những năm tới để nâng
cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lao động nông nghiệp, nông thôn và để đạt
đợc mục tiêu đến năm 2010 sẽ có 15% lao động qua đào tạo nghề (năm 1999
theo điều tra về lao động-việc làm, tỉ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật là
7,8% nhng theo dự án dạy nghề cho nông dân hiện nay chỉ có 0,44% lao động
nông thôn đợc đào tạo nghề (kinh tế Việt nam ngày 28/2/2000) cần phải áp dụng
hệ thống đồng bộ nhiều biện pháp, theo em cần có một số biện pháp chủ yếu sau
:
- Xây dựng chơng trình và nội dung học tập thiết thực cho nông nghiệp,
nông thôn.
Chơng trình và nội dung học tập cần phù hợp với trình độ của lao động
nông nghiệp, nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn trong trớc mắt
và cho giai đoạn 5 - 10 năm tới, để từng bớc đáp ứng nhu cầu của hội nhập quốc
tế, công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nớc.
Những kiến thức đợc trang bị cần tuỳ theo đối tợng và thời gian học tập. Trớc mắt cần trang bị cho đại đa số nông dân trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng
(đặc biệt u tiên những ngời đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự), các kiến thức về kỹ
thuật trồng trọt, chăn nuôi nh chăn nuôi Bò lai tăng trọng, lợn nạc, vịt siêu trứng,
nuôi trồng thuỷ sản trong lồng, bè trên biển, nuôi tôm sú, nhuyễn thể (sò huyết,
ngao, cua) Ba ba, cá bống tợng... Bảo vệ thực vật, đào tạo bồi dỡng cho một số
bộ phận nông dân, nhất là lực lợng trẻ một số nghề thủ công, sửa chữa bảo quản
máy nông nghiệp, chế biến thuỷ hải sản, rau quả..., dịch vụ, đào tạo bồi dỡng cho
ngời quản lý, lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ cấp huyện, cán bộ cấp cơ sở các kiến
thức về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh, tăng cờng khả năng liên kết giữa
nhà nớc- nông dân - nhà khoa học để tiếp thu các kiến thức mới về khoa học kỹ
thuật và quản lý kinh tế. Tất cả điều đó để tạo thêm việc làm mới (ngoài trồng
trọt, chăn nuôi) để phân bổ lại lao động và tăng sản lợng của các ngành công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ ... Chơng trình và nội dung hoàn thiện, bổ sung sau
từng khoá, nhằm đáp ứng tốt hơn cho sản xuất-kinh doanh trong nông nghiệp,
nông thôn.
-
Đa dạng hoá hình thức và thời gian đào tạo, bồi dỡng.
Đối với lao động gián tiếp(cán bộ quản lý kinh doanh) ; lao động trực tiếp
(là những nông dân...) cần có các lớp bồi dỡng,tổ chức công tác khuyến nông
khuyến lâm đến các cơ sở , mở các lớp tại chức với thời gian học tập linh hoạt.
Ngoài hình thức học tập theo trờng lớp hiện có ở 80 trung tâm dạy nghề ở
các huyện, quận và sẽ thành lập thêm các trung tâm, các trờng lớp khác, còn có
các lớp học tại nơi làm việc nh tại xởng sản xuất của gia đình, trang trại, hay tại
đồng ruộng hoặc nơi chăn nuôi.
- Xã hội hoá công tác đào tạo bồi dỡng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Tính chất xã hội thể hiện ở chỗ mọi cấp, mọi ngành, mọi hội quần chúng
(hội làm vờn, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh...) , mọi ngời lao động cũng nh các
tổ chức hợp tác quốc tế, cùng tham gia công tác đào tạo bồi dỡng lao động nông
nghiệp, nông thôn trong việc xây dựng chơng trình, biên soạn tài liệu, xây dựng
cơ sở vật chất của các trờng lớp. Xã hội hoá còn thể hiện ở chỗ ngời đợc đào tạo
bồi dỡng trớc dạy cho ngời cha đợc đào tạo bồi dỡng ; các gia đình tham gia
truyền nghề tiểu thủ công , nghề gia truyền cho các thành viên trong gia đình và
dòng họ ...
- Ban hành chính sách khuyến khích động viên ngời đào tạo nghề chuyên
môn kỹ thuật phát huy tài năng vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Các chính sách, chế độ quan trọng cần quan tâm giải quyết đối với ngời học
là chế độ miễn phí và trợ cấp tiền cho đối tợng cần đào tạo cấp học bổng, miễn
phí học phí cho ngời cam kết sẽ tình nguyện về công tác ở nông thôn sau khi tốt
nghiệp ; chế độ lơng, thời gian tập sự đợc rút ngắn một cách thoả đáng cho ngời
lao động làm một số công việc cần thiết cho nông nghiệp, nông thôn ; chính sách
khen thởng, chuyển vùng cho ngời ở nơi khác về công tác tại nông thôn sau thời
hạn công tác nhất định. Đối với ngời làm công tác chuyên giảng dạy cho nông
nghiệp nông thôn cần quan tâm đến chế độ tiền lơng và phụ cấp chế độ đào tạo,
bồi dỡng để nâng cao trình độ giảng dạy ... ; xét tặng khen thởng cho các nghệ
nhân tích cực tham gia truyền nghề.
Đối với ngời sử dụng lao động cần tin tởng và phân công hợp lý trình độ
của ngời lao động đợc đào tạo, bồi dỡng. Có thể nói đây là điểm mấu chốt cho
ngời lao động phát huy hết khả năng của mình sau khi đợc đào tạo bồi dỡng.
Ngoài các chính sách khuyến khích đào tạo, dạy nghề ở nông thôn cần có
sự chuyển lao động có chuyên môn từ thành thị, khu công nghiệp về nông thôn
kể cả lao động tình nguyện.
3.3.3 Đẩy mạnh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phơng cho tới nay vẫn còn mang
nặng tính chất tự cung tự cấp, trong đó trồng trọt vẫn là chủ yếu, chăn nuôi chỉ
chiếm tỷ trọng nhỏ (ở các địa phơng tỷ trọng này thờng không quá 20% giá trị
sản xuất nông nghiệp ).
Trong trồng trọt, diện tích gieo trồng cây lơng thực đặc biệt là trồng lúa
chiếm tỷ trọng rất cao. Các cây công nghiệp, cây ăn quả và các cây trồng có
trình độ thâm canh, có giá trị kinh tế cao còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong những
năm tới để góp phần tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, cần đẩy mạnh
việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở mỗi địa phơng theo hớng phát triển các
ngành nghề chăn nuôi và các phát triển các loại cây trồng có trình độ thâm canh
và có giá trị kinh tế cao mà thị trờng đang có nhu cầu nhất là thị trờng nớc ngoài.
Việc phát triển chăn nuôi và phát triển sản xuất các loại cây trồng có trình độ
thâm canh và giá trị kinh tế cao sẽ thu hút một bộ phận đáng kể lao động nông
thôn và sản xuất nông nghiệp. Xu thế chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nớc ta
trong thời gian tới nh sau :
- Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp
Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả các
nguồn lực phát triển của từng địa phơng, trong đó có nguồn lực lao động để phục
phát triển kinh tế địa phơng. ở một số nơi, do nhiều diện tích trồng lúa một vụ đợc chuyển đổi sang trồng cây ăn quả hoặc kết hợp trồng cây ăn qủa và nuôi cá,
tôm đã đem lại hiệu quả cao hơn hẳn so với trồng lúa trớc đây. Đồng thời thu hút
thêm đáng kể lao động vào sản xuất.
3.3.4
Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn ; khôi phục
và phát triển các làng nghề truyền thống nhằm tạo thêm nhiều việc làm
góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh
tế nông thôn. Về thực chất các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ra đời và hoạt
động trên cơ sở kinh tế gia đình và tiểu chủ. Đây là loại hình doanh nghiệp thích
ứng rộng rãi trong nền kinh tế hàng hoá do có thể thay đổi một cách linh hoạt về
phơng hớng, quy mô sản xuất kinh doanh và ứng dụng công nghệ sản xuất...
Tính thích ứng rộng tạo khả năng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đứng
vững trong cơ chế thị trờng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ với phơng hớng sản
xuất kinh doanh đa dạng có thể phân bố rộng khắp ở địa bàn nông thôn là một
nguồn thu hút lao động tại chỗ quan trọng, góp phần tích cực giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nh xí
nghiệp hơng trấn ở Trung quốc.
Trong tơng lai loại hình xí nghiệp hơng trấn có tác dụng rất lớn trong việc
giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động nông thôn , góp phần quan trọng
giảm sức ép, lao động trong nông thôn.
ở nớc ta, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn còn ít. Trừ các vùng
có làng nghề phát triển nh Hà Tây, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh...
thì các vùng còn lại hầu nh không có hoặc rất thiếu vắng các doanh nghiệp vừa
và nhỏ kinh doanh các ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp. Do vậy cần phải có
chính sách và biện pháp khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nh hỗ
trợ các doanh nghiệp hộ gia đình, doanh nghiệp t nhân, các doanh nghiệp hợp tác
xã, nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới ở
nông thôn.Để thực hiện có hiệu quả hình thức trên cần phải giải quyết tốt các
vấn đề sau:
-
Chính quyền cơ sở thực hiện nâng đỡ các doanh nhân tạo điều kiện cho
họ làm ăn theo pháp luật.
-
Thành lập các khu công nghiệp, dịch vụ gần các thị trấn, thị tứ, thị xã,
xây dựng cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê hoặc cho thuê đất
với giá rẻ, thuận tiện để xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá
thủ tục thuê đất, nhận chuyển nhợng quyền sử dụng đất. Doanh nghiệp đợc góp
cổ phần kinh doanh bằng quyền sử dụng đất. Xây dựng quy chế thống nhất về đền
bù giải phóng mặt bằng khi doanh thuê đất.
-
Các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh Nông-Lâm-Thuỷ sản đợc
xuất nhập khẩu các loại hàng hoá mà pháp luật không hạn chế, chỉ cần đăng ký
theo nghị định 57/CP.
-
Tăng cờng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, áp dụng
chế độ u đãi đầu t theo nghị định 43 và 51/CP.
-
Phát triển các thể chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nh : Hiệp hội
doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo, hệ thống kiểm tra chất lợng, dịch vụ tiếp thị,
vận tảI, phân phối, thông tin thị trờng ...
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thì vấn đề
khôi phục và phát triển trong ngành nghề truyền thống cũng góp phần lớn vào
việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nớc ta.
Hiện nay ở nớc ta có khoảng 1450 làng nghề, trong đó có khoảng 300 làng
nghề truyền thống, nó thu hút hàng triệu lao động trong nông thôn tham gia sản
xuất kinh doanh, góp phần nâng cao thu nhập cho hộ gia đình và ngời lao động.
Thực tế cho thấy một số làng nghề nh Đông kỵ (Tiên Sơn-Bắc Ninh), hàng năm
thu hút khoảng 4000 lao động ở địa phơng và nơi khác đến cha kể hàng trăm
công nhân lao động nhận công việc về nhà làm thêm và đã tạo ra giá trị sản lợng
lớn từ các mặt hàng gỗ mỹ nghệ (4-5 tỉ đồng). Hay một thí dụ khác nh làng nghề
gốm sứ Bát Tràng có 172 hộ gia đình làm nghề với hơn 800 lò gốm. Hàng năm
đã sản xuất ra trên 50 triệu sản phẩm các loại và không chỉ tạo ra đủ việc làm
cho lao động địa phơng mà hàng ngày còn thu hút từ 1500 - 2000 lao động từ nơi
khác đến làm việc. Ngoài các làng nghề điển hình trên còn có các làng nghề nh
La Phủ (Hoài Đức-Hà Tây) ; Quả Ninh (Nam Định); làng nghề thép ở Đa hội
(Bắc Ninh). Hàng năm thu hút hàng triệu lao động tham gia vào sản xuất. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra làm thế nào để các làng nghề truyền thống trong nông thôn
đợc khôi phục và phát triển vững chắc theo xu thế hội nhập của nền kinh tế. Do
vậy, Nhà nớc cần có những chính sách trợ giúp có hiệu quả.
Những hoạt động trợ giúp từ phía Nhà nớc cho phát triển các làng nghề
trong nông thôn bao gồm nhiều hoạt động cụ thể nhằm giải quyết những vớng
mắc, những tồn đọng hay những nhu cầu cụ thể nảy sinh trong từng giai đoạn
phát triển nhất định của làng nghề.
Hiện nay, có một số vấn đề nổi cộm liên quan đến khả năng phát triển bền
vững của các làng nghề đó là tình trạng xuống cấp, suy thoái môi trờng ở các
làng nghề nh La phủ cũng nh nhiều làng nghề khác, tuỳ theo loại làng nghề sản
xuất của làng nghề mà mức độ ô nhiễm các yếu tố môi trờng đất, nớc và không
khí với mức độ trầm trọng khác nhau. ở làng nghề dệt La phủ (Hà Tây); Quả
Linh (Nam Định), yếu tố môi trờng bị ô nhiễm chậm trọng nặng nhất là nguồn
nớc, tiếng ồn và không khí làng nghề Quả Linh thì mặt nớc ao hồ có màu đen
đục, có tăm khí, có vị chua mặn và mùi nồng nặc, nớc nhiều nhất, không khí có
nhiều bụi, mụi từ các chất tẩy nhuộm ... còn ở làng nghề sắt thép Đa hội thì
không kém : Nhiệt độ vợt quá nhiệt độ trung bình của môi trờng từ 4-5oc và có
những khu vực lên tới 42oc ; nồng độ C0 và C02 ngày càng vợt quá mức tiêu
chuẩn cho phép từ 2-3 lần, hàm lợng bụi trong không khí vợt quá tiêu chuẩn hơn
12 lần .... Có thể nói rằng trong thời gian qua các làng nghề ở nông thôn càng đạt
thành tựu phát triển kinh tế nhanh chóng thì ở đó tình trạng ô nhiễm môi trờng
càng nghiêm trọng. Đã đến lúc phải coi việc bảo vệ môi trờng là nhiệm vụ quan
trọng đặc biệt ngang tầm nh nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế của các làng
nghề ở nông thôn.
Vấn đề đặt ra là Nhà nớc có những biện pháp nhằm giúp đỡ các làng nghề
phát triển nh : áp dụng công nghệ mới, công nghệ cải tiến trong sản xuất ; hớng
dẫn giáo dục ý thức về môi trờng cho ngời dân; đầu t cho việc xử lý chất thải thu
hồi thu gom chất thải ; Tổ chức bảo vệ môi trờng nơi sản xuất, hỗ trợ đầu t trực
tiếp các công trình bảo vệ môi trờng ...
3.3.5 Tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng vùng kinh tế mới ở
những nơi còn quỹ đất đai, chấm dứt tình trạng du canh du c và hạn chế
tối đa tình trạng di dân tự do nhằm phân bổ hợp lý lao động dân c giữa
các vùng
Hiện nay ở nhiều địa phơng còn quỹ đất đai đáng kể có thể sử dụng vvào
sản xuất nông-lâm-ng nghiệp. Một số tỉnh huyện ở các vùng trung du, miền núi
quỹ đất đai có khả năng Nông-Lâm nghiệp còn khá lớn. Đây là một nguồn lực
quan trọng cần đợc khai thác để phát triển kinh tế của các vùng nay, đồng thời
để tạo thêm việc làm cho một bộ phận lớn lao động d thừa trong nông thôn.
Trong những năm tới, các địa phơng cần gắn việc khai thác các vùng đất có
khả năng Nông-Lâm-Ng nghiệp với việc phân bố lại lực lợng lao động nông thôn
thông qua việc tổ chức cho lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng các vùng
kinh tế mới. Trong những năm qua đã có một số nới tổ chức lao động trẻ trong
nông thôn đi xây dựng kinh tế mơí khá thành công. Nghệ an là tỉnh có nhiều
thành và kinh nghiệm tốt trong tổ chức công việc này, những năm qua Nghệ an
thành lập nhiều đội thanh niên Xung phong đi xây dựng kinh tế mới. Các đơn vị
thanh niên xung phong đợc tổ chức và đợc sự hỗ trợ giúp đỡ về mọi mặt của
chính quyền địa phơng.
Hiện nay, ở các huyện miền tây Nghệ an đã hình thành nhiều làng nghề
kinh tế mới của thanh niên xung phong. Khuyến khích họ xây dựng gia đình và
lập nghiệp trên vùng kinh tế mới.
Mô hình tổ chức thanh niên xung phong xây dựng vùng kinh tế mới của
Nghệ an là một mô hình tốt để kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết vấn đề
việc làm cho lao động nông thôn. Cách làm này của Nghệ an cần đợc các địa phơng nghiên cứu và tham khảo để xác định mô hình tổ chức phù hợp đa lao động
nông thôn đi xây dựng các vùng kinh tế mới.
Song song với việc tổ chức lao động trẻ trong nông thôn đi xây dựng các
vùng kinh tế mới thì chúng ta thực hiện tốt các dự án di dân, sớm chấm dứt tình
trạng du canh du c và hạn chế tối đa tình trạng di dân tự do, nhằm phân bố hợp lý
lao động và dân c giữa các vùng. Qua 37 năm (từ 1961 - 1997), thực hiện tốt
công tác di dân và xây dựng các vùng kinh tế mới chúng ta đã di chuyển đợc
khoảng 5,9 triệu ngời. Nếu tính từ năm 1991 đến năm 1997 là 1,2 triệu ngời,
riêng năm 1997 thực hiện di dân đợc 19.910 hộ với 89.003 nhân khẩu, 44.909
lao động. Ngoài ra, còn có trên 1 triệu ngời tự di chuyển để tìm và định c trên
các vùng đất mới. Tuy vậy đến nay nhu cầu di dân của một số vùng rất lớn nh ng
khả năng tiếp nhận dân đến ở một số vùng đã trở lên hạn hẹp. Năm 1998, cả nớc
thực hiện định canh, định c cho 30 - 35 ngàn hộ và giãn dân 30 ngàn hộ, thông
qua các dự án và chủ yếu là đến Bình Thuận và Tây nguyên.
3.3.6 Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn
Kinh nghiệm của các nớc, đặc biệt là các nớc trong khu vực cho thấy phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn là một trong các hớng chủ
yếu để tạo việc làm cho lao động nông thôn. Các ngành nghề phi nông nghiệp
trong nông thôn rất đa dạng bao gồm nhiều ngành nghề cụ thể thuộc các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ( nh công nghiệp chế biến Nông-Lâm-Thuỷ
sản, cơ khí, xây dựng và vật liệu cho sản xuất, các nghề thủ công truyền
thống ...), thơng mại dịch vụ trong nông thôn. Trong giai đoạn hiện nay ở nông
thôn nớc ta việc phát triển các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
có vai trò rất quan trọng đối với tạo việc làm cho lao động nông thôn vì trong
điêù kiện hiện nay phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn sẽ
huy động đợc các nguồn lực sẵn có tại chỗ để phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời
tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn.
Hiện tại công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn nớc ta còn
kém phát triển, phần lớn các vùng nông thôn nớc ta là các vùng thuần nông với
tỷ trọng của các ngành trồng trọt là rất cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguyên
nhân chủ yếu làm hạn chế sự phát triển của các ngành nghề công nghiệp trong
nông thôn nớc ta hiện nay là sự ách tắc trong khâu tiêu thụ sản phẩm bởi khả
năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn nớc ta còn thấp so với các nớc trong khu vực và nhiều nớc khác trên Thế giới.
Điều này chủ yếu là do chi phí đầu vào của ta cao, dẫn đến giá thành sản phẩm
cao ; công nghệ sản xuất nói chung còn lạc hậu so với các nớc. Do đó chất lợng
sản phẩm thấp, không có khả năng cạnh tranh trên thị trờng.
Để phát huy các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong
nông thôn nớc ta những năm tới Nhà nớc cần có các biện pháp phù hợp để tập
trung khắc phục những nguyên nhân chủ yếu nêu trên, nhằm giảm giá đầu vào
sản xuất nâng cao chất lợng, sức cạnh tranh của sản phẩm của các ngành công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đó là :
- Giảm thuế nhập khẩu tới 0% đối với tất cả các loại vật t máy móc thiết bị
nhập khẩu và giảm thuế giá trị gia tăng đối với việc sản xuất các loại vật t máy
móc thiết bị trong nớc phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất Nông-Lâm-Thuỷ sản
làm nguyên liệu chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp.
- Đầu t thoả đáng cho nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ trong các ngành Nông-Lâm-ng nghiệp và một số ngành sản xuất nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến, các ngành tiểu thủ công nghiệp để nâng cao chất
lợng nguyên liệu và giảm giá thành nguyên liệu.
- Tăng cờng đầu t cho các hoạt động nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và ứng
dụng các loại máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ trong các ngành công
nghiệp chế biến Nông-Lâm- Thuỷ sản và tiểu thủ công nghiệp để thay thế nhập
khẩu, giảm giá công nghệ đầu vào cho sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp.
- Hỗ trợ các ngành nghề phi nông nghiệp tìm kiếm thị trờng xuất khẩu
những mặt hàng vẫn còn khả năng phát triển nếu có sự thay đổi mẫu mã, thông
qua việc tổ chức các hội chợ, tổ chức triển lãm giới thiệu sản phẩm hoặc thông
qua các cơ quan ngoại thơng, các tổ chức thờng trú ở nớc ngoài. Các cơ quan này
hỗ trợ những thông tin chi tiết về sản phẩm ở thị trờng Quốc tế, phát hiện những
nhu cầu thị trờng ở các nớc làm môi giới hoặc thông tin cho các doanah nghiệp,
xí nghiệp... của ta về nhu cầu tiêu thụ sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng của từng
khu vực, từng nớc đối với các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Nhà nớc đóng vai
trò môi giới và tổ chức kết nối quan hệ hợp tác giữa các làng nghề với các cơ
quan nghiên cứu khoa học công nghệ để triển khai nghiên cứu và phát triển mặt
hàng.
- Tạo môi trờng thuận lợi cho các hoạt động hỗ trợ và dịch vụ phát triển,
nh tạo điều kiện thành lập các hiệp hội chuyên ngành, khuyến khích các nhà
cung cấp dịch vụ t vấn kinh doanh, t vấn thị trờng trợ giúp các làng nghề làm thủ
tục xuất nhập khẩu hàng hoá, giảm bớt khó khăn phiền hà trong thủ tục giấy tờ
xuất nhập khẩu.
Hỗ trợ nghiên cứu và phục hồi các ngành nghề truyền thống dựa trên
nguyên liệu địa phơng với công nghệ cải tiến thông qua cơ giới hoá, sản xuất ra
mặt hàng đa dạng có mẫu mã độc đáo, chất lợng cao đáp ứng thị hiếu ngời tiêu
dùng trong và ngoài nớc.
- Tạo lập mối liên kết giữa các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nông thôn với
các doanh nghiệp lớn ở thành thị trong đó các doanh nghiệp lớn đứng ra làm đầu
mối bao tiêu sản phẩm cho doanh nghiệp ở nông thôn làm cơ sở và vệ tinh cho
các doanh nghiệp lớn trên cơ sở hợp tác liên kết cùng có lợi.
- Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là các vùng xa và nghèo
để tăng khả năng tiếp cận thị trờng của các doanh nghiệp ở các vùng đó.
- Nâng cao chất lợng nguồn lao động nông thôn để đáp ứng yêu cầu đổi mới
công nghệ bằng việc đào tạo các ngành nghề mới phù hợp với yêu cầu thị trờng
và tái đào tạo lao động trong các ngành sử dụng công nghệ mới hoặc các ngành
đã mai một. Khuyến khích hình thành các trung tâm dạy nghề t nhân do các
nghệ nhân lành nghề hoặc thợ giỏi dạy cho các ngời có nhu cầu học. Có thể kết
hợp dạy nghề theo kiểu vừa học vừa làm ngay tại chỗ. Tổ chức các lớp đào tạo về
kỹ thuật và quản lý ở trình độ cao cho các chủ và công nhân có trình độ nhất
định của doanh nghiệp, của cơ sở sản xuất ... Nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ quản