Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.65 KB, 54 trang )
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phẩm nông nghiệp, …), chúng đều là loại sản phẩm chứa yếu tố công nghệ rất
cao, là kết quả sau bao nhiêu năm nghiên cứu và thử nghiệm thành công của
nhiều nhà khoa học trên thế giới.
Thứ hai: các loại hàng máy móc, vật tư và phụ kiện cho các dây chuyền
chế biến thực phẩm rất phù hợp với phương thức vận tải biển.
Hoạt động nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ kiện cho các dây chuyền
chế biến thực phẩm thường thực hiện trong một khoảng thời gian khá dài( 814 tuần). Hơn thế nữa, hàng hóa lại không nhạy cảm với thời tiết, đa số chúng
được nhập từ Đức và Thụy Điển, do vậy nếu nhập hàng về bằng đường biển
sẽ giảm được chi phí so với các phương thức vận tải khác mà vẫn đảm bảo
chất lượng của hàng.
Thứ ba: nhà cung cấp chính của các loại hàng máy móc, vật tư và phụ
kiện cho các dây chuyền chế biến thực phẩm là các hãng sản xuất nổi tiếng ở
Đức như: Huppmann, Lindermann, Neumo, GEA, APV, Alfa Laval, …Đặc
biệt, Đức là quốc gia nổi tiếng về các dây chuyền thiết bị sản xuất đồ uống,
công nghệ nấu bia ở Đức đã trở thành truyền thống từ bao đời nay. Do vậy,
Đức có thể gọi là nơi cung cấp các dây chuyền công nghệ và thiết bị nguồn
trong ngành công nghiệp thực phẩm.
Thứ tư: nhập khẩu các loại hàng máy móc, vật tư và phụ kiện cho các
dây chuyền chế biến thực phẩm thường phải ký các hợp đồng nội trước. Điều
này là bởi vì chúng thường phục vụ cho một dự án, công trình nhất định và có
giá trị khá lớn. Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có doanh nghiệp nào trong
ngành có đủ năng lực để có nhập máy móc, vật tư và phụ kiện để thực hiện
đầu tư xây lắp khi chưa có hợp đồng nội. Do vây, hoạt động nhập khẩu này
mang tính thụ động rất cao.
Thứ năm: ngoài những kỹ năng về nghiệp vụ, người làm công tác nhập
khẩu phải am hiểu về chuyên ngành khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là ngành
điện lạnh. Đây là một đòi hỏi rất cao vì nó liên quan đến hiệu quả của những
công trình có giá trị khá lớn. Sau khi ký kết hợp đồng, nhân viên kinh doanh
Đào Thị Kim Nhung
4
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xuất nhập khẩu phải dựa trên các tính năng kỹ thuật của từng mặt hàng để có
thể lập kế hoạch và đưa ra phương án nhập khẩu tối ưu.
2.
Vai trò của nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ kiện cho các dây
chuyền chế biến thực phẩm
2.1. Sự cần thiết phải nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ kiện cho các dây
chuyền chế biến chế biến thực phẩm
Rượu – Bia - Nước giải khát là một ngành công nghiệp lớn. Trong thời
kỳ đổi mới, ngành đã có nhiều đóng góp cho nền kinh tế quốc dân và phục vụ
tốt cho nhu cầu người tiêu dùng. Thành công này có phần đóng góp quan
trọng của khoa học – công nghệ với nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng vào
thực tiễn. Nhiều công nghệ mới được chuyển giao từ nhiều nước trên thế giới
đã từng bước nâng cao năng suất, chất lượng và uy tín sản phẩm trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Vào những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,
Ngành Rượu – Bia - Nước giải khát dần mất đi vị thế độc quyền vốn có từ
thời bao cấp. Sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm nhập ngoại, hàng nhái
nhãn mác và cả hàng giả trong nền kinh tế thị trường đã khiến các doanh
nghiệp trong ngành gặp vô vàn khó khăn. Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều sự
thay đổi theo hướng tích cực, tình trạnh đó vẫn làm hạn chế rất nhiều đến sự
phát triển của ngành và làm chậm tốc độ tăng trưởng của tổng thể nền kinh tế.
Muốn đứng vững và phát triển, ngành Rượu – Bia - Nước giải khát phải đổi
mới sản xuất bằng máy móc, thiết bị hiện đại với công nghệ sản xuất tiên tiến.
Nhưng có một thực tế là, mặt bằng về trình độ công nghệ sản xuất và
thiết bị trong ngành còn lạc hậu, hiện còn thấp hơn so với các nước phát triển
trong khu vực. Đó là chưa kể đến những bài toán bất cập sau đầu tư. Chẳng
hạn, nhiều doanh nghiệp còn đầu tư một cách dàn trải, thiếu tính toán nếu
không muốn nói là chưa biết cách đầu tư một cách đúng đắn, phù hợp, đã gây
ra tình trạng lãng phí, thất thu khiến sản xuất – kinh doanh của các doanh
nghiệp này kém hiệu quả. Chi phí sản xuất cao, sản phẩm tạo ra lại không
đảm bảo chất lượng nên doanh số bán ra và tỷ suất lợi nhuận trên một đồng
Đào Thị Kim Nhung
5
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chi phí rất thấp. Không những thế, theo đánh giá của các chuyên gia đầu
ngành, chất lượng đồ uống do các cơ sở bia địa phương, tư nhân, cổ phần sản
xuất thường không ổn định, nhiều khi không đảm bảo chất lượng, hàm lượng
độc tố cao, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và uy tín của ngành Rượu – Bia Nước giải khát và sức khỏe người tiêu dùng.
Cho đến nay, trong nước có ít doanh nghiệp có thể đủ năng lực để tự đầu
tư, đổi mới máy móc, thiết bị sản xuất sản phẩm đồ uống. Các doanh nghiệp
còn lại phải đi tìm một hướng đi khác. Một số doanh nghiệp lựa chọn hình
thức liên doanh với nước ngoài để tận dụng nguồn vốn và công nghệ, kỹ thuật
hiện đại của các hãng nổi tiếng như: công ty Bia Đông Á, công ty Liên doanh
Bia Việt Nam, công ty Nước giải khát Quốc tế IBC, …Nắm bắt tình hình đó,
một số doanh nghiệp chuyên đầu tư, xây lắp đã mạnh dạn mua máy móc, thiết
bị, linh kiện của nước ngoài về để tiến hành thi công, lắp đặt trong nước như:
công ty Cơ nhiệt điện lạnh Bách Khoa POLYCO, công ty Đầu tư Xây lắp Cơ
Điện lạnh ERESSON, công ty TNHH phát triển Công nghệ Việt Pháp, …
Bởi vậy, hơn bao giờ hết, nhập khẩu các máy móc, vật tư và phụ kiện
cho các dây chuyền chế biến thực phẩm là nhu cầu thiết yếu cho sản xuất
trong nước, thậm chí là điều không thể nào tránh khỏi cho sự phát triển.
2.2. Vai trò của nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ kiện cho các dây
chuyền chế biến thực phẩm
Cũng như những hoạt động khác, nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ
kiện cho các dây chuyền chế biến thực phẩm đã có những đóng góp không
nhỏ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, ngành
Rượu – Bia - Nước giải khát và bản thân từng doanh nghiệp nói riêng.
Đầu tiên phải nói đến là hoạt động này đã góp phần nào tạo điều kiện
thúc đẩy nhanh cho quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và chuyển dịch
cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nói riêng trong
lĩnh vực sản xuất bia, chỉ với 8 doanh nghiệp ( chiếm 1,7%) được trang bị
thiết bị hiện đại, tự động hóa cao, cùng với hệ thống lên men theo công nghệ
Đào Thị Kim Nhung
6
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hiện đại, tự động hóa cao, cùng với hệ thống lên men theo công nghệ hiện đại
đã sản xuất được 443 triệu lít, chiếm 62% sản lượng toàn ngành. Hiệu suất
huy động đạt 79%. Trong khi đó, với 461 cơ sở sản xuất bia địa phương, tư
nhân, cổ phần( chiếm 98,3%) chủ yếu được trang bị bằng thiết bị chế tạo
trong nước thiếu đồng bộ, tự động chưa cao, thậm chí còn lạc hậu, phương
pháp lên men chủ yếu theo công nghệ cũ( hệ thống nhà lạnh và thiết bị lên
men chính phụ riêng biệt) chỉ sản xuất khoảng 38% sản lượng toàn ngành.
Hiệu suất huy động chỉ 61%. Đặc biệt, sự tăng trưởng của ngành đã cùng với
các ngành công nghiệp khác đã góp phần rất lớn trong GDP của cả nước.
Năm 2003, tỷ trọng của toàn ngành công nghiệp trong GDP là 40%, đóng góp
trên 53% vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, hàng năm hoạt động này đã góp phần tăng thu cho ngân
sách nhà nước thông qua nhập khẩu. Thuế nhập khẩu đối với các loại hàng
này thường rất cao. Mức thuế thông thường là 0% - 35%, nhưng đa số là
trong khoảng 5% - 35%, đặc biệt phần lớn phụ kiện đều nằm trong mức 20% 30%. Trong khi đó giá cả nhập về của các loại hang này không hề thấp mà
nhu cầu lại ngày càng tăng. Vì vậy, mỗi năm, hoạt động này đã góp vào ngân
sách đến hàng tỷ đồng.
Không những thế, các vật tư, thiết bị, linh kiện nhập về đã cho ra những
sản phẩm có chất lượng tốt, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của người
dân. Thay vì dùng đồ uống nhập ngoại như trước, giờ đây người dân đã có thể
lựa chọn cho mình những loại đồ uống phù hợp, có chất lượng cao được sản
xuất trong nước. Do đó, nó làm giảm nhập khẩu đồ uống của các hãng nước
ngoài và làm giảm sức cạnh tranh của hàng nhái nhãn mác và hàng nhập lậu.
Đặc biệt hơn nữa, hoạt động này còn đóng góp vào việc bổ sung kịp thời
những mặt mất cân đối của nền kinh tế .
Thứ nhất: gián tiếp và trực tiếp tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao
động đã giảm bớt mất cân đối trong cơ cấu đào tạo và việc làm - một trong
những vấn đề trọng yếu và tháo gỡ của các cơ quan chức năng.
Đào Thị Kim Nhung
7
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ hai: nó góp phần đẩy mạnh xuất khẩu cho đất nước, đồng thời cải
thiện sự mất cân đối trong cán cân mậu dịch( cán cân xuất nhập khẩu). Từ chỗ
sản phẩm sản xuất ra chủ yếu được tiêu thụ trong nước, giá trị kim ngạch xuất
khẩu không đáng kể, cho đến nay, sản phẩm Rượu – Bia - Nước giải khát đã
đang từng bước tiếp cận thị trường thế giới với kim ngạch xuất khẩu bình
quân đạt khoảng 7 triệu USD/năm( theo thống kê của hiệp hội Rượu – Bia Nước giải khát Việt Nam). Đối với tình trạng liên tục nhập siêu như hiện nay,
thành công đó cũng rất đáng ghi nhận.
Trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến đã thực sự tạo bước đột phá
cho Ngành Rượu – Bia - Nước giải khát Việt Nam nói chung, cho bản thân
doanh nghiệp nói riêng. Theo báo cáo của Bộ Công nghiệp, mức tăng trưởng
bình quân toàn ngành đạt 10%/năm. Năm 2003, công suất bia của cả nước đạt
1,29 tỷ lít, đến năm 2004 đã vượt lên 1,37 tỷ lít, sản lượng nước giải khát tăng
bình quân trong khoảng 10 năm trở lại đây là 25,8%/năm, sản lượng rượu
tăng nhẹ và có xu hướng chậm lại nhưng chất lượng rượu đảm bảo hơn.
Xét riêng về bản thân các doanh nghiệp sản xuất Rượu – Bia - Nước giải
khát, nhờ mạnh dạn đầu tư ứng dụng các công nghệ tiên tiến được nhập từ các
hãng sản xuất nổi tiếng trên thế giới đã thực sự có được sức sống mới và các
bước nhảy vọt. Một trong những doanh nghiệp đi tiên phong trong lĩnh vực
này là Tổng công ty Rượu – Bia - Nước giải khát Hà Nội. Từ năm 1992 đến
năm 1994, công ty đã đầu tư nhập khẩu dây chuyền chiết chai mới công suất
10.000 chai/giờ và 15.000 chai/giờ của KHS và Krones(Đức), dây chuyền lên
men ngoài trời 20 triệu lít/năm của Chema Brukerdur(Đức), hệ thống lạnh và
nén khí đồng bộ(Đức), dây chuyền thu hồi khí CO2 250kg/giờ của Đan Mạch.
Nhờ có hệ thống thiết bị hiện đại, công suất của công ty đã tăng từ 30 lên 50
triệu lít/năm.
Đào Thị Kim Nhung
8
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
II. Nhu cầu máy móc, vật tư, phụ kiện cho Ngành Rượu – Bia - Nước
giải khát tại thị trường Việt Nam
1.
Đầu tư thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm
Từ năm 2005, tổng công ty Rượu – Bia - Nước giải khát Hà Nội sẽ tiếp
tục đầu tư bổ sung thêm một số thiết bị đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm hệ thống chiết keg bia hơi số 2 có công suất 240keg/giờ, máy pha
bia tự động, hệ thống silô chứa nguyên liệu, máy xếp dữ Pallet, đổi mới dây
chuyền bia lon công suất 18.000 lon/giờ, đầu tư hệ thống thiết bị thanh trùng
và thiết bị đồng bộ của sản phẩm bia tươi. Đầu tư hệ thống tank lên men và
các thiết bị phụ trợ công suất 20 triệu lít/năm để năng suất lên 120 triệu
lít/năm và thay thế cho hệ thống hầm cũ khi đưa vào nhà máy bia Vĩnh Phúc
đi vào hoạt động.
2.
Hình thức đầu tư
Hiện nay, ngành Rượu – Bia - Nước giải khát Hà Nội sẽ tiếp tục đầu tư
các nhà máy có công suất lớn, phát huy tối đa năng lực của các cơ sở sản xuất
có thiết bị và công nghệ tiên tiến, đồng thời tiến hành đầu tư mở rộng năng
lực của một số nhà máy hiện có. Đa dạng hóa hình thức đầu tư, phương thức
huy động vốn, khuyến khích huy động nguồn vốn của các thành phần kinh tế
trong nước, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, đẩy mạnh việc cổ phần hóa đối với
những doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn
3.
Các chỉ tiêu chủ yếu để phát triển ngành Rượu – Bia - Nước giải
khát Việt Nam đến năm 2010
Đào Thị Kim Nhung
9
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảng 2: Mục tiêu của “Quy hoạch tổng thể phát triển Ngành Rượu – Bia
- Nước giải khát Việt Nam đến năm 2010”
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2002
Mục tiêu
Năm 2005
Chênh lệch
các mục
2
3
4
5
Triệu lít
1000
Triệu lít
Triệu lít
Triệu lít
0
250
800
225
300
1100
2900
120
1500
4120
-180
400
1220
Nhu cầu vốn Tỷ đồng
0
385
8002
14292
6290
đầu tư cho toàn
1
Mục tiêu được
đến
Năm
điều chỉnh lại
Năm
200
đến năm 2010
2010
5
120 1500 2500
1
Bia
Rượu
Nước giải khát
Tổng
tiêu đến
năm 2010
ngành
Nguồn: http://www.vietnamnet.vn
Như vậy, theo kế hoạch trên, đa số các chỉ tiêu đều được điều chỉnh tăng lên
khá cao, chỉ riêng sản phẩm rượu được điều chỉnh giảm xuống nhưng không
đáng kể. Do đó, nhu cầu vốn đầu tư cho toàn ngành dự kiến cũng tăng lên
6.290 tỷ đồng so với mục tiêu đề ra ban đầu
a. Về bia:
- Tổng công ty Rượu – Bia - Nước giải khát Việt Nam giữ vai trò chủ chốt
trong việc nâng cao uy tín thương hệu bia Việt Nam, đảm bảo sản xuất và tiêu
thụ đạt tỷ trọng từ 60% đến 70% thị phần trong nước và hướng tới xuất khẩu
- Tập trung đầu tư các nhà máy có công suất lớn, sản xuất kinh doanh hiệu
quả, quản lý chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo chất lượng, giá
thành được người tiêu dùng chấp nhận, cụ thể:
+ Xây dựng mới một nhà máy bia tại Củ Chi thuộc công ty Bia Sài Gòn với
công suất 100 triệu lít/năm(giai đoạn 2000-2005) và có khả năng mở rộng lên
300 triệu lít/năm trong những năm tiếp theo
Đào Thị Kim Nhung
10
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Sau năm 2005 xây dựng mới một nhà máy bia thuộc công ty Bia Hà Nội với
công suất 100 triệu lít/năm và có khả năng mở rộng lên 200 triệu lít/năm vào
những năm tiếp theo
- Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện theo đúng
giấy phép đầu tư, tập trung khai thác đủ công suất thiết kế đã được phê duyệt.
Trong những năm tới, chưa xem xét cấp giấy phép thành lập liên doanh mới
hoặc tăng năng lực sản xuất của các cơ sở hiện có
b. Về rượu:
- Tổng công ty Rượu – Bia - Nước giải khát Việt Nam giữ vai trò chủ chốt
trong sản xuất các loại rượu đặc sản truyền thống, rượu chất lượng cao để đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, có biện pháp thích hợp nhằm giảm dần
rượu nấu bằng phương pháp thủ công
- Tăng cường quản lý nhà nước trong sản xuất và tiêu thụ rượu
- Tập trung đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất rượu công
nghiệp chất lượng cao, giảm tối đa thành phần độc hại
- Đề xuất việc hợp tác hoặc liên doanh với nước ngoài sản xuất một số loại
rượu chất lượng cao sản phẩm các loại nguyên liệu trong nước, nhằm thay thế
nhập khẩu
- Trong giai đoạn 2001-2005, công ty Rượu Hà Nội, công ty Rượu Bình Tây
tiến hành đầu tư mới công nghệ và thiết bị, để mỗi công ty đạt công suất: cồn
tinh bột 5 triệu lít/năm, rượu các loại 10 triệu lít/năm và tăng năng suất lên
gấp đôi ở giai đoạn sau
c. Về nước giải khát:
Tổng công ty Rượu – Bia - Nước giải khát Việt Nam giữ vai trò chủ chốt
trong việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất nước giải khát từ nguyên liệu
trong nước, trong đó ưu tiên năng lực sản xuất nước quả, không đầu tư năng
lực sản xuất nước giải khát có gaz pha chế từ hương liệu nhập khẩu
Những nhân tố trên bước đầu cho phép chúng ta đưa ra nhận định rằng:
trong tương lai gần, xu hướng của ngành Rượu – Bia - Nước giải khát đang và
Đào Thị Kim Nhung
11
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sẽ phát triển theo hướng đem lại hiệu quả cao về kinh tế - xã hội, đảm bảo sức
khỏe cho con người và vệ sinh môi trường. Vì thế, khoa học – công nghệ sẽ
đóng vai trò quan trọng, quyết định không nhỏ tới cuộc chiến về chất lượng,
mẫu mã, chủng loại và giá cả sản xuất. Nếu nhận định này là đúng thì nhu cầu
nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ kiện cho các dây chuyền chế biến thực
phẩm vẫn còn tăng lên rất nhiều trong những năm tiếp theo.
Đào Thị Kim Nhung
12
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương II: Thực trạng nhập khẩu máy móc, vật tư và phụ kiện
cho các dây chuyền chế biến thực phẩm tại công ty
ERESSON
I.
Giới thiệu tổng quan về công ty ERESSON
1.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty Cổ Phần Cơ điện lạnh( Electronics Mechanical Refrigeration
Invesment And Assembly Company – ERESSON Co.ltd) có trụ sở chính tại
số 9 đường Phạm Hùng, Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội, được thành lập vào năm
1986, trực thuộc Viện Khoa Học Việt Nam. Ngay sau khi luật công ty được
ban hành, công ty đã nhanh chóng hoàn tất thủ tục chuyển đổi và trở thành
công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, với số vốn điều lệ là
15.456.280.000 đồng. Vào năm 1992, công ty chính thức đi vào hoạt động
quy mô và phát triển mạnh. Ban đầu, công ty có tên giao dịch là ELFRIME,
nhưng từ tháng 4 năm 2000 công ty bắt đầu sử dụng tên giao dịch mới là
ERESSON. Hiện nay, toàn bộ công ty nằm trên khu đất rộng gồm 7000m2.
Khi mới bắt đầu thành lập, công ty với đội ngũ chỉ hơn 10 người, công
việc ban đầu chỉ là gia công cơ khí, lắp đặt hệ thống nhà lạnh cho các nhà
máy sản xuất rượu bia. Tại thời điểm này, ngành Rượu – Bia - Nước giải khát
Việt Nam cũng chưa thực sự quan tâm, chú trọng. Chủ yếu của giai đoạn này
là các doanh nghiệp đầu tư phát triển một cách tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng.
Sau năm 1995, ngành Rượu – Bia - Nước giải khát Việt Nam bắt đầu lên
ngôi, nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh. Theo thống kê của Bộ Công Nghiệp, số đơn
vị sản xuất - kinh doanh trong ngành này tăng lên đáng kể, ước tính cả nước
có khoảng gần 770 đơn vị. Trong đó, riêng ngành sản xuất bia có 469 cơ sở
sản xuất, đặc biệt sự xuất hiện của hàng loạt các hãng lớn trên thế giới ở Việt
Nam như: Heineken, Tiger, Carberg, San Miguel, TuBorg… và rượu ngoại
Đào Thị Kim Nhung
13
TMQT 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhập tràn lan đã khiến sự cạnh tranh trên thị trường Đồ uống Việt Nam ngày
càng gay gắt và quyết liệt.
Nắm bắt thực tế đó, ban lãnh đạo và đội ngũ kỹ thuật của công ty đã
ngày đêm trăn trở, nghiên cứu, tìm hướng đi đúng đắn và các giải pháp để đưa
ra thị trường các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Lúc đó, toàn thể
cán bộ công nhân viên công ty đã xác định giải pháp đưa ra thương hiệu
ERESSON chiếm lĩnh thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu với mục
tiêu kinh doanh là: “Bán những sản phẩm mà khách hàng cần, chứ không
phải những thứ mà mình có, thuyết phục khách hàng làm theo giá của
mình chứ không làm theo giá của khách hàng”.
Để đạt được điều đó, công ty đã mạnh dạn huy động vốn từ toàn thể cán
bộ công nhân viên và vay vốn từ bên ngoài để đầu tư xây dựng nhà xưởng và
mua sắm trang thiết bị, máy móc mới phục vụ cho sản xuất với số đầu tư lên
đến 15 tỷ đồng. Nhờ mạnh dạn cả trong suy nghĩ và hành động, nên chỉ sau
thời gian ngắn, ERESSON đã nhanh chóng có được những sản phẩm đặc
chủng, đa dạng và chất lượng cao. Nhờ đó, doanh thu của công ty không
ngừng tăng qua các năm.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của ngành Rượu – Bia - Nước giải khát
Việt Nam về cả chất lẫn lượng(mức tăng trưởng bình quân hiện đạt hơn
10%/năm), nhưng lĩnh vực công nghệ chế tạo thiết bị cho ngành này trên khắp
cả nước chỉ chưa đầy 10 đơn vị. Các đơn vị trong ngành có khả năng sản xuất
được sản phẩm có chất lượng cao còn hạn chế. Phần lớn các đơn vị sản xuất
trong ngành đồ uống đều phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài. Với bản
thân ERESSON, mặc dù đã “chịu khó” đầu tư trang thiết bị cũng như các
công nghệ mới nhưng cũng không nằm ngoài trường hợp đó. Bởi vậy, một lần
nữa, công ty ERESSON lại trăn trở với những thách thức mới. Trăn trở đó đã
thôi thúc ban lãnh đạo đi đến một quyết định táo bạo là thực hiện khảo sát và
nghiên cứu, học tập khoa học - kỹ thuật của các tập đoàn lớn mạnh dạn ở các
Đào Thị Kim Nhung
14
TMQT 44