1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

2 ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.69 KB, 95 trang )


kết quả đã đạt được của đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất

của xã hội.

Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các

nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong

tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.

Như vậy, nếu xem xét trờn giỏc độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động

sử dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thờm cỏc tài sản vật chất, nguồn

nhân lực và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng

hoạt động của các tài sản và nguồn lực sẵn có.

1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

vận tải đường bộ

1.2.2.1 Khái niệm

Từ việc phân tích khái niệm đầu tư ở trên, chúng ta có thể đưa ra khái

niệm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ như sau:

Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là hình thức cấp

vốn cho việc khôi phục, nâng cấp hoặc xây dựng mới các công trình đường bộ

gồm các loại công trình đường, cầu và hầm đường bộ nhằm đáp ứng nhu cầu

vận tải và giao lưu đi lại của nhân dân.

Như vậy, đầu tư phát triển giao thông đường bộ là một hoạt động đầu

tư phát triển của nhà nước, của các đơn vị kinh tế hoặc của các địa phương

vào các công trình hoặc hạng mục công trình thuộc lĩnh vực giao thông vận

tải.

Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là loại hình đầu

tư cơ bản với đặc thù là một ngành sản xuất độc lập và đặc biệt bao gồm cỏc

hỡnh thức cụ thể như: làm mới, làm lại, mở rộng, khôi phục và sửa chữa lớn

các công trình đường bộ.

Làm mới là việc đầu tư xây dựng các tuyến đường, những chiếc cầu mà

từ trước đến nay chưa cú trờn mạng lưới đường sá, cầu cống của đất nước.



Đõy là hoạt động mang tính chất tái sản xuất mở rộng tài sản cố định, nú gúp

phần làm tăng số lượng và giá trị tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân.

Đối với các công trình giao thông đường bộ đang có, nhưng do điều

kiện kỹ thuật khai thác và nhiệm vụ vận chuyển thay đổi thì việc mở rộng cho

phù hợp với đòi hỏi cũng là một dạng tái sản xuất mở rộng tài sản quốc gia.

Đối với các công trình giao thông đường bộ hiện có nhưng bị hư hại,

muốn khai thác bình thường thì phải tiến hành khôi phục hoặc sửa chữa.

Những hình thức này đều nhằm tái sản xuất giản đơn tài sản cố định.

1.2.2.2 Đặc điểm

Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói chung và kết

cấu hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng là ngành sản xuất vật chất đặc biệt

bởi nú cú những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường

bộ không chỉ mang lại lợi ích là lợi nhuận đơn thuần của các tổ chức thực

hiện mà quan trọng hơn, nó tạo điều kiện tiền đề cho các ngành sản xuất khác

khai thác phát triển và khôi phục nhu cầu đi lại của nhân dân, là điều kiện để

ổn định và phát triển kinh tế trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chủ đầu

tư hầu như không có lợi nhuận trực tiếp trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng

giao thông đường bộ mà lợi ích mong đợi là cho kinh tế xã hội của đất nước.

Thứ hai, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ với bản

chất là loại hình đầu tư phát triển nờn luụn cần khối lượng vốn lớn, thời gian

tiến hành thi công dài.

Thứ ba, sản phẩm đầu tư là những công trình giao thông đường bộ, là

những hàng hóa công cộng, do nhiều thành phần tham gia khai thác, sử dụng.

Trong xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ thì sản phẩm được mua

có tính đơn chiếc, được mua từ trước khi sản xuất và theo yêu cầu đinh trước

của người mua hàng. Ở đõy, người mua chính là chủ đầu tư các công trình

giao thông đường bộ. Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng, yêu cầu riêng về

công nghệ, quy mụ…Chớnh vỡ vậy, mặc dù về hình thức có thể giống nhau



nhưng chi phí xây dựng, chất lượng, khối lượng các công trình có thể khác

nhau. Sản phẩm của xây dựng giao thông đường bộ là các công trình cố định,

tồn tại, phát huy tác dụng lâu dài và gắn với đất đai.

Thứ tư, quá trình thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường

bộ luôn di dộng, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, lực lượng thi công

phân tán, trải dài trên tuyến, nên đòi hỏi cao về năng lực tổ chức và sự linh

hoạt của cán bộ thi công, công tác tổ chức cung cấp vật tư phải nhịp nhàng,

phù hợp với tiến độ thi công, lực lượng thi công phải gọn nhẹ, trình độ công

nhân phải thành thạo, đơn vị thi công cần được trang bị tiên tiến, hiện đại.

Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói chung và

giao thông đường bộ nói riêng phải đi trước một bước. Phát triển kết cấu hạ

tầng giao thông vận tải có chức năng là trang bị kết cấu hạ tầng giao thông

phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận

chuyển ngày càng tăng của con người. Đồng thời do tính trễ của hoạt động

đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (thời gian thực hiện cỏc

cụng viờc từ việc khảo sát, thiết kế cho đến khi thi công hoàn thành một công

trình giao thông đường bộ thường dài). Vì vậy, để kết cấu hạ tầng giao thông

đường bộ đáp ứng được nhu cầu đi lại và phục vụ sản xuất kinh doanh cần

phải dự báo được những yêu cầu cơ bản mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước đòi hỏi, để có định hướng đúng về quy mô, chất lượng các

công trình kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Từ những đặc điểm phân tích ở trên, chúng ta thấy đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng giao thông đường bộ thực chất là đầu tư phát triển mạng lưới

đường bộ, một phương thức giao thông quan trọng và tiện lợi bậc nhất trong

các loại hình giao thông hiện nay.

1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông

đường bộ

Để đỏnh giá vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ,

chỳng ta có thể sử dụng hai nhóm chỉ tiêu: thứ nhất, nhóm chỉ tiêu phản ánh



việc thu hút vốn đầu tư gồm: quy mô, cơ cấu vốn đầu tư; thứ hai, nhóm chỉ

tiêu phản ánh việc sử dụng vốn đầu tư gồm: các chỉ tiêu phản ánh kết quả và

các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Cụ thể như sau:

- Quy mô vốn đầu tư: là chỉ tiêu tổng hợp tính bằng tiền, phản ánh chi

phí bỏ ra gắn liền với việc làm tăng thêm tài sản cố định là các công trình giao

thông đường bộ. Đó là các chi phí nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất

mở rộng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Như vậy, quy mô (khối lượng)

vốn đầu tư là chỉ tiêu tuyệt đối và được tính bằng đơn vị giá trị.

Để xác định sự tăng trưởng của vốn đầu tư có thể sử dụng mức tăng

(∆I) của vốn đầu tư hoặc tốc độ tăng trưởng (g) của vốn đầu tư.

- Cơ cấu vốn đầu tư:

Cơ cấu của một đối tượng được thể hiện bằng hai đặc trưng chính, đó là

các bộ phận cấu thành nên đối tượng và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu

thành đối tượng đó. Như vậy, cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa

từng loại vốn trong tổng số vốn đầu tư.

Vốn đầu tư có thể được phân chia theo nguồn vốn, cho biết tỷ lệ vốn

đầu tư theo các nguồn khác nhau (ví dụ: vốn trong nước bao gồm các nguồn

sau: Ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tư nhân, vốn vay trong

nước…)

Vốn đầu tư có thể phân chia theo nội dung đầu tư: đầu tư cho hạ tầng

giao thông đường bộ gồm đầu tư xây đường, cầu, hầm.

Đồng thời, vốn đầu tư có thể phân chia theo tính chất của đầu tư, gồm:

đầu tư mới, đầu tư cải tạo và nâng cấp.

Vốn đầu tư có thể phân theo mô quy dự án đầu tư.

- Kết quả đầu tư được phản ánh qua:

(1) khối lượng vốn đầu tư thực hiện thực tế so với kế hoạch đặt ra (tính

bằng tỷ lệ %)

(2) Hạ tầng giao thông được hình thành từ hoạt động đầu tư (tính bằng

Km đường, cầu, hầm được xây mới hoặc nâng cấp, sửa chữa.



- Hiệu quả đầu tư

Hiệu quả đầu tư là tổng hợp các lợi ích kinh tế, kỹ thuật, xã hội, môi

trường, an ninh quốc phòng do đầu tư tạo ra. Các lợi ích này được xác định

trong mối quan hệ so sánh giữa các kết quả do đầu tư tạo ra với chi phí bỏ ra

để đạt được kết quả đó.

Như vậy, hiệu quả đầu tư hạ tầng giao thông có thể được đo bằng:

(1) khối lượng hàng hóa và hành khách vận chuyển và luân chuyển

tăng thêm do hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ được xây mới và nâng

cấp, cải tạo;

(2) giảm tình trạng ùn tắc đường;

(3) giảm tình trạng tai nạn giao thông…

1.2.4 Tầm quan trọng của việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

vận tải đường bộ

Thứ nhất, đầu tư xây dựng cỏc cụng trình kết cấu hạ tầng giao thông đường

bộ là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ tới phát triển và nâng cao hiệu

quả kinh tế xã hội, thúc đẩy hội nhập khu vực và quốc tế.

Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải

đường bộ là một ngành sản xuất với mục đích làm tiền đề cho việc phát triển

các ngành kinh tế xã hội khác. Theo đỏnh giá của Ngân hàng thế giới, nếu đầu

tư cho kết cấu hạ tầng thêm 1% thì GDP cũng tăng thêm 1% và bình quân

hàng năm người dân nhận được thêm 0,3% nước sạch, 0,8% mặt đường trải

nhựa; 1.5% năng lượng và 1,7% thông tin liên lạc.

Xây dựng giao thông còn kích thích các ngành sản xuất khỏc. Vỡ xõy

dựng giao thông tiêu thụ một lượng lớn sắt thép, xi măng, cũng như các vật

liệu xây dựng khác như cát, đá và cỏc hoỏ chất phụ gia xây dựng. Vì thế sẽ

kích thích các ngành sản xuất thép, sản xuất xi măng, khai thác cát, đá. Ngành

vận tải cũng vì thế có thị trường để vận chuyển một khối lượng lớn vật tư, vật

liệu.



Khi hệ thống giao thông đường bộ được nâng cấp, cải thiện sẽ cú tác

động làm giảm thời gian và chi phí vận chuyển vật tư hàng hóa đầu vào và

hàng hóa đầu ra của các ngành sản xuất, giảm cho phớ nhiờn liệu dùng cho

các phương tiện vận tải, giảm hao mòn, giảm chi phí và thời gian sửa chữa

các phương tiện này. Đõy là những yếu tố cấu thành chi phí sản xuất của

doanh nghiệp, của ngành sản xuất và lớn hơn nữa là của toàn xã hội. Lợi

nhuận của các doanh nghiệp sẽ tăng lên do giảm được các chi phí vận chuyển,

chi phí khấu hao tài sản.

Có thể nói trong thời kỳ suy thoái kinh tế việc ưu tiên đầu tư xây dựng

hạ tầng là giải pháp đúng đắn và hiệu quả nhất để phục hồi kinh tế. Đầu tư

xây dựng hạ tầng giao thông còn là cơ hội chuẩn bị tốt hạ tầng để khi kinh tế

hồi phục là có thể cung cấp điều kiện cho các ngành sản xuất khỏc phỏt triển

nhanh, giảm được tắc nghẽn giao thông hiện nay. Kinh nghiệm của các nước

khi đưa ra giải pháp ứng cứu kinh tế đều dành nguồn lớn cho hạ tầng trong đú

có hạ tầng giao thông. Trong gói giải pháp đợt hai, chính quyền Hoa Kỳ đã

dành 120 trong tổng số 787 tỷ đụla cho cơ sở hạ tầng. Uỷ ban cải cỏch phỏt

triển Trung Quốc trong gúi kớch cầu đợt 2 cũng dành 31,5 trong tổng số 130

tỷ Nhân dân tệ cho cơ sở hạ tầng. Tất nhiên cần chọn lĩnh vực hạ tầng nào

đang là khâu yếu nhất và khi đầu tư vào đạt nhiều mục tiêu nhất nhằm khắc

phục suy thoái.

Thứ hai, đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đường

bộ còn là giải pháp trực tiếp và gián tiếp tới những vấn đề xã hội cấp bách.

Xây dựng giao thông cần nhiều lao động, nhất là lao động phổ thông.

Trong điều kiện cung lao động lớn, nhưng chất lượng lao động không cao (tỷ

lệ lao động qua đào tạo thấp), tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao và tỷ lệ sử

dụng thời gian lao động ở nông thôn thấp, thất nghiệp trá hình tồn tại phổ biến

thì đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông sẽ tạo việc làm cho nhiều lao động,

giảm áp lực giải quyết việc làm cho các khu vực khác.



Khi mạng lưới giao thông đường bộ được nâng cấp, mở rộng sẽ góp

phần giảm tai nạn giao thông và hạn chế ùn tắc giao thông tại đô thị. Tai nạn

giao thông đường bộ và ùn tắc giao thông tại đô thị đang là vấn đề nóng bỏng

được Chính phủ và xã hội quan tâm. Tai nạn giao thông gây thiệt hại lớn đến

vấn đề kinh tế xã hội và gia đình người bị nạn. Theo nhận định của các

chuyên gia nước ngoài thì tổng thiệt hại do tai nạn giao thông xảy ra hàng

năm ở Việt Nam là khoảng 2% GDP. Ngoài những nguyên nhân do ý thức

của người tham gia giao thông kém, thói quen điều khiển phương tiện giao

thông khụng tuõn thủ những quy định an toàn giao thông thì một yếu tố quan

trọng là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cũn kém chất lượng,

không đạt tiêu chuẩn, xuống cấp và không được bảo dưỡng duy tu thường

xuyên và quan trọng nhất là chưa kịp phát triển với tốc độ phát triển của

phương tiện vận tải đường bộ. Việc ùn tắc giao thông luôn diễn ra trên phạm

vi cả nước vẫn có xu hướng tăng và luôn thuộc vào nhúm cỏc nước có mức

tắc nghẽn giao thông vào loại cao trên thế giới.

Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cũn góp phần

giải quyết vấn đề môi trường giao thông. Khói thải, tiếng ồn, bụi giao thông

hiện tại đã vượt quỏ tiờu chuẩn cho phép ở rất nhiều đô thị. Chất lượng các

phương tiện giao thông thấp cộng với kết cấu hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng

được tạo nên sự ô nhiễm cao. Theo khảo sát, hàm lượng bụi trong không khí ở

Việt Nam cao từ 10 đến 60 lần mức cho phép, tiếng ồn thường vượt từ 2 đến

15dB. Môi trường không khí đang có nguy cơ ô nhiễm nặng, nồng độ một số

tác nhân ô nhiễm từ khí thải phương tiện giao thông đường bộ đã vượt quỏ

giỏ trị cho phép nhiều lần. Do vậy, một mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông

đường bộ có quy hoạch, hoàn thiện về tiêu chuẩn kỹ thuật, về yếu tố kinh tế

xã hội sẽ giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường giao thông đường bộ.

Thứ ba, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ luôn nằm

trong mục tiờu “phỏt triển bền vững”. Trong quan điểm phát triển giao thông

vận tải, vấn đề phát triển bền vững là nhằm vào ba phương diện: một là



phương diện nhu cầu, hai là phương diện cung ứng và ba là phương diện thể

chế. Trong đó, cung ứng là đối trọng của nhu cầu và thể chế là điểm tựa. Thể

chế luôn luôn phải thay đổi để điều tiết cân bằng cung cầu. Hiện nay, một số

biểu hiện phát triển ngành giao thông vận tải bền vững là: phát triển các dự án

có tính khả thi cao, cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố kinh tế và môi trường, lựa

chọn các giải pháp chi phí hiệu quả, lâu bền, hợp thành thể thống nhất với quy

hoạch đô thị và sử dụng hiệu quả đất đai.

1.3 NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO

THÔNG VẬN TẢI ĐƯỜNG BỘ

1.3.1. Các nguồn vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đường bộ

Vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là biểu hiện bằng

tiền của toàn bộ các chi phí cần thiết để tạo nên thực thể công trình có phản

ánh toàn bộ những chi phí dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xõy dựng

lại và khôi phục tài sản cố định trong một thời kỳ nhất định, bao gồm: chi phí

khảo sát, quy hoạch; chi phí chuẩn bị đầu tư và thiết kế; chi phớ xây dựng; chi

phí mua sắm, lắp đặt thiết bị và các khoản chi phí khác thực hiện trong một

thời kỳ nhất định. Nhìn một cách tổng hợp, nguồn vốn đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng giao thông đường bộ được hình thành từ các nguồn vốn chính:

nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng, vốn do các doanh nghiệp nhà

nước đầu tư, nguồn vốn thuộc khu vực dân cư và tư nhõn, vốn đầu tư nước

ngoài.

- Vốn ngân sách nhà nước: đõy là nguồn vốn đầu tư cơ bản và quan trọng

nhất để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cũng như duy

trì việc bảo dưỡng, vận hành và đảm bảo giao thông trờn cỏc tuyến đường.

Nguồn vốn này được hình thành từ khoản chênh giữa tổng thu và chi thường

xuyên của ngân sách nhà nước. Ngoài ra còn từ bỏn, thuê tài nguyên tài sản

thuộc khu vực nhà nước và các khoản phớ khỏc. Công trình giao thông đường

bộ là những công trình công cộng, đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn trong khi thời



gian thu hồi vốn dài, lãi suất thấp nờn cỏc nhà đầu tư, đặc biệt là ở các nước

đang phát triển thường không muốn và không đủ khả năng để đầu tư vào lĩnh

vực này. Vì vậy, nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn là nguồn vốn chủ yếu.

- Vốn tín dụng nhà nước: từ năm 1997, được Chính phủ cho phép, Cục

đường bộ Việt Nam đã thực hiện một số hình thức tăng nguồn vốn đầu tư cho

hệ thống giao thông quốc lộ bằng hình thức này. Đõy là một nguồn vốn lớn,

hỗ trợ đầu tư chống được sự xuống cấp ở các tuyến đường không được đầu tư

bằng nguồn ngân sách. Nguồn vốn để trả nợ vay đầu tư là số tiền thu phí sử

dụng sau khi hoàn thành công trình đưa vào khai thác, sử dụng.

- Vốn của các doanh nghiệp nhà nước: Đõy là nguồn vốn của các doanh

nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng giao thông vận tải, tham gia đầu tư

xây dựng công trình. Vốn này bao gồm vốn tự có của doanh nghiệp, vốn huy

động từ khu vực tư nhân qua các doanh nghiệp thành viên là công ty cổ phần,

vay tín dụng…

- Vốn của khu vực tư nhân và dân cư: đõy là nguồn vốn của các công ty

tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH đầu tư theo hình thức BOT, ngoài

vốn tự cú, các nhà đầu tư tư nhân cũng đi vay tín dụng.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): bao gồm vốn của các cá nhân

hay tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới dạng đầu tư trực tiếp bao

gồm: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và hợp

đồng hợp tác kinh doanh.

- Vốn vay ODA: là nguồn vốn quan trọng trong đầu tư phát triển cơ sở hạ

tầng giao thông đường bộ. Vốn vay ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức của

các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo, chậm phát triển vay ưu đói để khôi

phục và phát triển kinh tế. Vốn vay ODA nước ngoài dựa vào hiệp định ký

kết giữa các tổ chức tiền tệ quốc tế, cỏc Chính phủ nước ngoài với Chớnh phủ

Việt Nam. Từ năm 1993 đến nay, được sự cho phép của Chính phủ, ngành

giao thông vận tải bắt đầu tiếp nhận nguồn vốn ODA để khôi phục nâng cấp

hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông. Đến nay, các nhà tài trợ chính gồm: Ngân



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

×