Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.03 MB, 108 trang )
gây ra các sức ép về kinh tế, chính trị, xã hội như ODA hay các khoản tín dụng quốc
tế.
2.2. Nước nhận đầu tư có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật hiện đại từ nước
ngoài.
Tác động tràn liên quan đến phổ biến và chuyển giao công nghệ thông qua
FDI thường đưẩc coi là một mục tiêu quan trọng cùa các nước đang phát triển. Với
việc tiếp nhận nguồn vốn đẩu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư luôn hướng
đến tiế p nhận cả khoa học kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm để có thể tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Các công nghệ m à các chủ đầu tư nước ngoài chuyển giao cho các nước đang
phát triển thường dưới dạna những tiến bộ côns nghệ, sản phẩm công nghệ, còng
nghệ thiết kếvà xây đựng, kỹ thuật kiểm tra chất lưẩng, cõng nghệ quân lý, công
nghệ marketing. FDI không chỉ mang lại công nghệ cho các nước thông qua con
đường chuyển giao từ nước ngoài vào m à còn bằng cách xây dựng các cơ sờ nghiền
cứu và phát triển, đào tạo cho đội ngũ lao động ờ nước chủ nhà đếphục vụ cho các
dự án đầu tư, tuy nhiên chí phí cho việc xây dựng và nghiên cứu là rất lớn. Ngoài ra,
chuyển giao công nghệ cũng có thể có đưẩc thông qua việc di chuyển lao động.
Thông qua FDI, kiến thức, kĩ năng quản lý, kỹ năng tay nghề lao độn? đưẩc truyền
bá vào nước nhận đầu tư.
Như vậy, bằng cách này hay cách khác FDI luôn gắn liền với việc tiếp nhận
công nghệ kỹ thuật hiện đại từ nước chủ đầu tư, vấn đề ở đây chỉ là điều kiện trong
nước nhận đầu tư có đủ để đón nhận, phổ biế và chuyển giao công nghệ hay không.
n
2.3. F D I tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực trong nước.
Khu vực có vốn FDI tạo ra số lưẩng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt
là trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo. Nhìn chung, số lưẩng việc làm trong khu vực có
vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động ờ các nước đang phát triển có xu hướng
tăng lên. Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc đào tao, nâng cao trình độ cho
người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường cao
hơn trong các doanh nghiệp nhà nước. Với tiêu chí coi hiệu quả làm việc là ưu tiên
hàng đẩu trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có vốn FDI
thường xây dựng đưẩc một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác phong
22
công nghiệp và có kỷ luật cao. Phẩn lớn số lao động này được tham gia đào tạo, học
tập kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến của nước ngoài để có thể nâng cao kiến
thức kinh doanh của bản thân. Mặt khác, các doanh nghiệp có vốn FDI thưầng trả
lương cho lao động cao hơn các doanh nghiệp trong nước, do đó thu hút được lực
lượng lao động trẻ hay lao động có tay nghề cao, nâng cao hiệu quả sản xuất.
2.4. F D I góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, FDI vào các nước đang phát triển chủ
yếu nhằm khai thác các nguồn t i nguyên thiên nhiên phục vụ cho ngành công
à
nghiệp ầ chính quốc. Ngày nay, FDI đang trở thành một yếu tố tạo ra sự chuyển
biến cơ cấu kinh tế tích cực ở các nước nhận đầu tư. sầ dĩ nói như vậy là bởi với
mục đích tìm kiếm lợi nhuận và tối đa hoa lợi nhuận, các nhà đầu tư nước ngoài
luôn hướng đến những ngành nghề có tính sinh lầi cao như cống nghiệp, dịch vụ, t i
à
chính, ngân hàng.... Do đó, FDI chủ yếu được tiến hành bởi các TNCs và thưầng tập
trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, vì vậy FDI đáp ứng được nhu cầu phát
triển các ngành này của các nước đang phát triển. Với tỷ trọng vốn đầu tư cho các
ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, một hệ quà không thể không nhắc
đến ở đây chính là: FDI khiến tỷ trọng về sản lượng, kim ngạch xuất khẩu, lao
động... trong các ngành công nghiệp, dịch vụ của các nước đang phát triển tăng
nhanh. Đồng thầi, tỷ trọng của các ngành kinh tế truyền thống giảm mạnh. Đây là
một dấu hiệu tích cực cho công cuộc công nghiệp hoa, hiện đại hoa và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển.
2.5. F D I góp phần tích cực vào các cân đối lớn của nền kinh tế.
Trong giai đoạn đầu mới phát triển, quan hệ hợp tác quốc tế chưa được mầ
rộng, do trình độ phát triển thấp, thiếu vốn kèm theo công nghệ thiết bị lạc hậu...
nén năng lực sản xuất của các nước đang phát triển rất yếu kém, không đủ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Nguồn
vốn FDI vào đã giúp các nước giải quyết khó khăn trên. Khu vực có vốn FDI đáp
ứng một phần nhu cẩu hàng hoa trong nước, làm giảm căng thẳng cung cầu, giảm sự
phụ thuộc vào hàng nhập khẩu. Không chỉ đáp ứna nhu cầu nội địa, FDI còn hướng
vào xuất khẩu và nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu này giúp cải thiện đáng kể cán cân
thương mại. Hơn thế, FDI còn góp phẩn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thúc
23
đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, đổng thời tăng thu ngân sách nước nhận
đầu tư thông qua thuế và tiêu dùng các dịch vụ công cộng. Như vậy, các dự án FDI
góp phẩn ổn định kinh tế vĩ m ô của các nước đang phát triển. Các cán đối lớn của
nền kinh tế như cung cầu hàng hoa trong nước, xuất nhập khẩu, thu chi ngân sách
đều thay đổi theo chiều hướng tích cực nhờ sự đóng góp của FDI.
2.6. F D I tạo điều kiện mắ rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trường t h ế giới.
Theo m ô hình chu kỳ sản xuất bắt kịp của Akamasu có thể thấy rằng thông
qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài , nước nhận đầu tư có thế học hỏi được
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cải tiến kỹ thuật, tiếp nhận được máy móc, thiết bị
hiện đại để mắ rộng sản xuất. Nhờ đó đã đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô,
tăng năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ được chi phí giá thành.
Do đó, làm xuất hiện nhu cầu xuất khẩu ắ nước nhận đầu tư và nâng cao năng lực
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hiện nay, ắ nhiều nước kim ngạch xuất khẩu của
các doanh nghiệp có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch
xuất khẩu là một minh chứng cho thấy rõ xu hướng thu hút FDI để hướng vào xuất
khẩu của các nước nhận đầu tư. Bên cạnh đó, thông qua các mối quan hệ sẵn có của
các nhà đẩu tư nước ngoài, hàng hoa của các doanh nghiệp có vốn FDI mắ rộng ra
thị trường thế giới. Như vậy, thông qua hoạt động FDI, nước nhận đầu tư không
những tiếp nhận được khoa học kỹ thuật mà còn mắ rộng được thị trường xuất khẩu
và nâng cao năng lực canh tranh, vị thế trên trường quốc tế.
2.7. F D I giú củng c i và mắ rộng quan hệ hợp tác quốc tẻ, đẩy nhanh tiến
p
ô
trình hội nhập vào nền kinh tẽ k h u vực và thê giói.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động đẩu tư nước ngoài ngày
càng có ý nghĩa và vai trò quan trọng. Quan hệ chính trị đối ngoại giữa các nước là
chất xúc tác cho quan hệ kinh tế và quan hệ đầu tư phát triển, ngược lại quan hệ đầu
tư cũng góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển. Theo đó,
quan hệ của các nước phát triển thông qua quá trình phát triển của các doanh nghiệp
có vốn FDI. Việc đầu tư nguồn lực vào một doanh nghiệp trên lãnh thổ của một nền
kinh tế khác cũng đồng nghĩa với việc đặt quan hệ ngoại giao với quốc gia đó. Nhìn
lại Việt Nam trước và sau năm 1986 để thấy rõ được vai trò quan trọng của đầu tư
24
trực tiếp nước ngoài trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế như thế nào. Thông
qua các dự án FDI, các nước đang phát triển từng bước tham gia vào phân cống lao
động quốc tế và vào hệ thống sản xuất thế giới. Nền kinh tế trong nước dần dần
tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này tạo thuận lợi
cho các nước tham gia vào các hiệp định hợp tác kinh tế song phương, đa phương,
do đó nó trờ thành một th
dầu bôi trơn, đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và thế giới.
25
Chương l i : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU T Ư TRỰC TIẾP CỦA C Á C
DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN TẠI KHU v ự c PHÍA BẤC
VIỆT NAM
ì. C ơ SỞ PHÁP LÝ ĐIỂU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA
C Á C DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM
1. Luật đầu tư 2005
Quan hệ đâu tư với nước ngoài cùa Việt Nam được mở đẩu bởi dấu mốc ngày
29 tháng 12 năm 1987, tại kỳ họp thứ hai khoa vu, Quốc hội đã thông qua Luật đẩu
tư nước ngoài tại Việt Nam. Kể từ khi ban hành đến nay, Luật Đâu tư nước ngoài đã
được sỗa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000. Sau mỗi lần sỗa
đổi bổ sung, Luật Đầu tư nước ngoài lại được hoàn thiện thêm một bước, đáp ứng
hơn với yêu cầu thực tế, đổng thời mở ra những khả năng thu hút vốn đầu tư mới.
Cùng với sự thay đổi của Luật đầu tư nước ngoài, Nhà nước Việt Nam đã lần lượt
sỗa đổi và thông qua nhiều luật quan trọng như Luật Thương mại, Luật Doanh
nghiệp, tạo môi trường pháp lý đổng bộ cho các hoạt động đáu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, khung pháp lý
song phương và đa phương liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng không ngừng được
mở rộng và hoàn thiện với việc ký kết khoảng 51 hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư với các khu vực, các nước và vùng lãnh thổ.
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật đầu tư được quốc hội nước cộng hoa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua là một dấu ấn quan trọng đánh dấu sự phát triển
của các văn bản pháp l liên quan đến đầu tư nước ngoài. Bời đây là văn bản pháp l
í
í
đầu tiên điểu chỉnh chung về hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Luật đẩu tư 2005 thay thế cho các luật: Luật Đẩu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996,
Luật sỗa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
2000, Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Luật đầu tư 2005 đối xỗ bình đẳng với tất
cả các doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước hay doanh nghiệp nhà nước.
Đổng thời một điểm thay đổi căn bản nữa đó là, Luật đẩu tư 2005 đảm bảo tự do trong
kinh doanh, theo đó doanh nghiệp được phép kinh doanh tất cả những gì m à pháp luật
26
Việt Nam không cấm, chuyển từ cách tiếp cận "các ngành được phép" sang "danh sách
loại trừ và hạn chế". Hơn nữa, hệ thống ưu đãi đẩu tư theo hướng đơn giản hoa thủ tục
cũng trở thành một điều khoản bễ sung cơ bản.
Có thể thấy những thay đễi trong luật đẩu tư 2005 và các vãn bản pháp luật
khác đã và đang phù hợp với các thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn, thúc đẩy thu
hút đầu tư nước ngoài. Rõ ràng rằng khi nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong
nước xích lại gần nhau hem trong việc áp dụng các luật có liên quan thì sự giao thoa
trong cách làm, trong hướng đi cũng sẽ xuất hiện và về lâu dài là có lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam.
2. Hiệp định giữa Nhật Bản và nước C H X H C N Việt Nam về tự do, xúc tiến và
bảo hộ đầu tư
Tháng 3 năm 1999, Thủ tướng Nhật Bản Keizo Obuchi và thủ tướng Phan
r
Văn Khải đã nhất t í bắt đầu đàm phán về việc ký kết hiệp định đầu tư Nhật - Việt
Nam. Qua hai lần đàm phán dự bị, bốn lần đàm phán chính thức, ngày 14 - l i 2003, Hiệp định về tự do xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa Nhặt và cộng hoa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được ký kết. Theo hiệp định này, hai bẽn sẽ thực hiện cách đối xử
quốc gia và đối xử tối huệ quốc theo điểu kiện từng nước. Cụ thể trone khu vực của
mình sẽ dành cho các nhà đầu tư của mỗi bên những đôi xử không kém thuận lợi
hơn so với đối xử dành cho các nhà đầu tư nước ngoài và những đầu tư trong nước
mình trong cùng một hoàn cành tương tự nhau trong việc thành lập, mua lại, mờ
rộng hoạt động, quản lý, sử dụng, thu lợi. Việt Nam cũng cam kết sẽ từng bước tạo
dựng một môi trường đầu tư thống thoáng và cởi mờ, mờ rộng dẩn các khả năng tiếp
cận thị trường đầu tư cho nhà đẩu tư Nhật Bản theo các lộ trình được thống nhất.
Hiệp định này có ý nghĩa lớn trên góc độ quy định nghĩa vụ về nguyên tấc dành đối
xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia, bào đảm tính minh bạch, tính ễn định về pháp
luật và tính dự báo cho nhà đầu tư. Hiệp định này là một bước tiến quan trọng cho
Sáng kiến chung giữa Việt Nam và Nhật Bản và "Sáng kiến liên kết kinh tế toàn diện
Nhật Bản - Asean" được cụ thể hoa.
3. Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản năm 2003
Tháng Tư năm 2003, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phan Văn Khải và Thủ
tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi đã có cuộc gặp ở Tokyo và quyết định thực hiện
27