1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Mục đích của quản lý lưu vực sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 190 trang )


đến các tài nguyên như là việc định cư dân số, phát triển đô thị, công nghiệp, nông

nghiệp…

Nước là một tài nguyên có thể tái tạo, sự hình thành và quy luật biến đổi của

nước phụ thuộc chặt chẽ vào chu trình thủy văn trên lưu vực sông. Việc khai thác và sử

dụng nước giữa các vùng khác nhau trên lưu vực đều tác động đến nhau. Thí dụ như lấy

quá mức nguồn nước ở thượng lưu sẽ ảnh hưởng rõ rệt làm suy giảm dòng chảy tại hạ

lưu. Vì thế, lấy toàn bộ lưu vực sông làm đơn vị quản lý sẽ tạo ra những điều kiện thuận

lợi và cơ sở tốt xem xét các mối quan hệ trên và hướng tới quản lý tài nguyên nước lưu

vực một cách tổng hợp và bền vững.

Với một lưu vực sông bao gồm nhiều tỉnh thì quản lý thống nhất theo lưu vực

sông sẽ tạo cơ sở thuận lợi để giải quyết tốt công việc quản lý, nhất là khi cần giải quyết

các mối quan hệ hay các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sử dụng hay quản lý tài

nguyên giữa các vùng khác nhau trên lưu vực như là giữa thượng lưu, trung lưu và khu

vực hạ lưu của sông. Thông qua hoạt động của một cơ quan quản lý lưu vực sông, tất cả

các hoạt động quản lý bảo vệ tài nguyên được xem xét và xử lý một cách thống nhất và

nhanh chóng không phải thông qua bất cứ một cơ chế phối hợp phức tạp nào mà cơ chế

quản lý theo địa giới hành chính thường phải gặp.

Quản lý theo lưu vực sông sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc cải thiện việc

lập kế hoạch, bảo tồn, phát triển và quản lý nước, đất, rừng và các nguồn lực dưới nước

trong phạm vi lưu vực sông, nhằm tối đa hóa lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội một cách

công bằng mà không làm tổn hại đến tính bền vững của hệ thống môi trường trọng yếu

của lưu vực sông.

Xem xét một cách chi tiết thì quản lý lưu vực sông cần đạt được những yêu cầu

chủ yếu sau đây:



Phối hợp các chính sách, chương trình và các hoạt động trong mối quan

hệ của quản lý tổng hợp lưu vực sông.



Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tổng hợp lưu vực.



Khuyến khích sử dụng bền vững các tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài

nguyên nước trong mối quan hệ với đất và các tài nguyên tự nhiên khác.



Xác định và phục hồi những nguồn tài nguyên thiên nhiên bị suy giảm và

xuống cấp.



Cung cấp đất canh tác ổn định, cung cấp đủ nước với chất lượng đảm bảo,

bảo vệ lớp phủ thực vật trong lưu vực.

Trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên tự nhiên trên lưu vực sông từ

thời xa xưa cho đến ngày nay, con người thường chú trọng đến việc khai thác các

nguồn lợi sẵn có của tự nhiên để sử dụng cho cuộc sống của mình, điều đó không thể

tránh khỏi các sự tổn thương đối với tài nguyên và hệ sinh thái. Làm thế nào vừa khai

thác sử dụng mà vẫn quản lý bảo vệ và duy trì được các nguồn tài nguyên tự nhiên của

lưu vực sông? Để đạt được mục tiêu trên, quản lý lưu vực phải hướng vào các hoạt

động chủ yếu sau:

- Ngăn ngừa và chặn đứng sự xuống cấp của các tài nguyên hiện có của lưu vực

sông, trong đó chú trọng những tài nguyên thiên nhiên đã bị xuống cấp (thí dụ như tài

nguyên nước và đất), và tìm cách bảo tồn chúng cho sử dụng lâu dài của con người.



- Tạo các phương thức phù hợp để sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên

nhiên trong khả năng của chúng.

- Các biện pháp để giảm thiểu các tác động tiêu cực gây ra từ việc gia tăng sử

dụng tài nguyên của con người trong các thập kỷ gần đây.

Đây là một vấn đề rất phức tạp liên quan không những về mặt kỹ thuật mà còn cả

việc tổ chức thể chế cần có một cách nhìn chiến lược theo hướng tổng hợp, toàn diện và

lâu dài thì mới có thể giải quyết nổi.

1.2. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ LƯU VỰC SÔNG TRONG BỐ́I CẢNH PHÁT TRIỂN CỦA

QUỐC GIA

Mỗi quốc gia tùy theo diện tích và điều kiện tự nhiên thường có một hoặc vài hệ

thống sông lớn, các lưu vực sông này với nguồn tài nguyên nước, đất và các nguồn tài

nguyên sinh thái luôn là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế của các vùng và nền kinh

tế chung của đất nước.

Ở nước ta, ngoài hai lưu vực sông quốc tế là lưu vực sông Hồng - Thái Bình và

lưu vực sông Mê Kông, còn có nhiều lưu vực sông lớn khác nằm trong một tỉnh hay

nhiều tỉnh như các lưu vực sông Cả, sông Mã, sông Quảng Trị, sông Hương, sông Thu

Bồn, Trà Khúc, sông Cái - Nha Trang, sông Kôn - Hà Thanh, sông Ba, sông Cái - Phan

Rang và sông Đồng Nai (xem hình 1-1 là bản đồ các lưu vực sông chính của Việt

Nam).

Trên các lưu vực sông, tài nguyên nước là đầu vào quan trọng tạo nên các của

cải vật chất khác nuôi dưỡng toàn bộ cư dân sống trên lưu vực sông và duy trì chức

năng của các hệ sinh thái. Tài nguyên đất và nước là cơ sở cho các hoạt động phát triển

nông nghiệp, lâm nghiệp. Các nguồn khoáng sản, năng lượng được khai thác và sử

dụng phục vụ công nghiệp. Ngoài ra tài nguyên của lưu vực sông còn là cơ sở để phát

triển thủy sản, du lịch và các ngành dịch vụ,...

Nói chung với các sông quốc tế, việc phát triển kinh tế của các nước ven sông

luôn phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của lưu vực sông, các hoạt

động đó lại tác động trở lại đến tài nguyên và môi trường của lưu vực sông. Mặt tiêu

cực của tăng trưởng kinh tế hiện nay trên các lưu vực sông là đã làm tăng tốc độ khai

thác và sử dụng tài nguyên của lưu vực sông, dẫn đến tăng sức ép đối với những hệ sinh

thái tự nhiên nhạy cảm và chất lượng môi trường sống của con người.

Các thách thức trong quản lý đối với nhà nước là phải đảm bảo lợi ích của tăng

trưởng kinh tế được phân bổ đều cho tất cả các vùng (nghĩa là xóa bỏ đói nghèo ở các

khu vực nông thôn) và đảm bảo được việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên

thiên nhiên trong khi hạn chế tối đa mức suy thoái môi trường.

Việc khai thác tài nguyên môi trường trên lưu vực sông Mê Kông có thể lấy làm

ví dụ, trong đó nông nghiệp là thành phần kinh tế cơ bản của tất cả các nước. Với

những nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu như Lào, Campuchia và Việt Nam, hơn ba

phần tư số dân làm nghề nông đóng góp quan trọng tới tổng sản phẩm quốc dân. Việc

mở rộng đất trồng trọt cho mục đích nông nghiệp dẫn đến hủy hoại ngày càng nhiều đất

rừng.

Tăng cường sản xuất nông nghiệp cũng dẫn đến việc sử dụng ngày càng nhiều

chất hóa học trong nông nghiệp - việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Thái Lan tăng

gần sáu lần từ năm 1976 đến 1989 với gần một nửa triệu tấn chất hóa học được sử



dụng. Việc sử dụng rộng rãi phân bón và thuốc bảo vệ thực vật có thể có tác động

không tốt tới chất lượng nước ở bề mặt và nước ngầm, và Sức khỏe của người và động

vật. Trong đó vấn đề lo ngại nhất là việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật bền như

DDT, những chất như vậy là mối đe dọa lâu dài tới Sức khỏe và môi trường sống của

con người.

Việc thay đổi tập quán du canh nhằm kiểm soát việc làm thoái hóa rừng và xói

mòn đất. Tập quán du canh hay bán du canh truyền thống được chấp nhận khi đất có

khoảng thời gian bỏ hoang đủ dài để khôi phục lại một cách tự nhiên. Vấn đề ở chỗ, với

mật độ dân số tăng lên, chu kỳ canh tác trở nên quá ngắn, đất kém màu mỡ hơn, và các

hoạt động du canh trở nên không bền vững. Tác động của các tập quán canh tác không

bền vững có xu hướng làm trầm trọng hơn mức độ xói mòn và các vấn đề về đất do phá

rừng, đặc biệt ở những nơi có độ dốc cao. Mở rộng đất nông nghiệp thường đi theo sau

đốn rừng, dẫn đến việc mở đường vào những vùng trước đó không thể đến được. Mặc

dù những vùng đất mới được khai phá ban đầu cho năng suất thu hoạch khá cao (do độ

dinh dưỡng cao trong đất), sản lượng thường giảm mạnh sau một số chu kỳ canh tác

dẫn đến việc xâm lấn canh tác nông nghiệp ngày càng rộng tới những vùng đất mới. Đó

là tình trạng hiện nay của nhiều lưu vực sông ở các nước đang phát triển gặp phải trong

quá trình đẩy mạnh khai thác tài nguyên môi trường lưu vực.

Người dân ở các vùng nông thôn hiện nay trên các lưu vực sông còn bị phụ

thuộc phần lớn vào gỗ củi để làm nhiên liệu phục vụ nhu cầu nấu nướng và sưởi ấm, thí

dụ Campuchia 95%; Lào 80%; Thái Lan 52%; Việt Nam 98%. Chính điều này đã tác

động đến môi trường và quản lý thảm phủ rừng càng khó khăn.

Các hoạt động khai thác gỗ thương mại hiện cũng đe dọa nghiêm trọng tới hệ

sinh thái rừng của lưu vực sông. Bất chấp các lệnh cấm và tạm ngừng khai thác gỗ được

ban hành của nhà nước, nhiều hoạt động khai thác gỗ phi pháp vẫn không kiểm soát

được càng đe dọa thảm phủ rừng ngay cả ở khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn.



Bản đồ lưu vực sông



Hình 1-1. Các lưu vực sông có diện tích lớn hơn 2500 km2 của nước ta

Hiện nay, nhà nước rất chú trọng phát triển chương trình trồng rừng nhưng một

số vùng trên các lưu vực sông diện tích rừng vẫn bị giảm do các hoạt động khai thác gỗ.

Rừng trồng thường bao gồm các loài cây tăng trưởng nhanh để cung cấp gỗ xây dựng,

nguyên liệu thô cho sản xuất bột gỗ và bột giấy, cung cấp gỗ nhiên liệu và phủ xanh

những vùng đất trọc. Cho dù với những nỗ lực lớn trồng cây gây rừng nhưng cũng phải

thừa nhận rằng các cánh rừng được trồng rất nghèo về đa dạng sinh học so với các cánh

rừng nguyên sinh. Thêm vào đó, nếu không nỗ lực tạo ra các vùng đệm xung quanh các

con suối và sông ngay khi các hoạt động khai thác bắt đầu xảy ra thì việc trồng rừng

không thể giải quyết được các ảnh hưởng tiêu cực lên nguồn nước ngọt trên bề mặt và

các nguồn tài nguyên trên cạn. Rừng trồng đơn loài thường không phải là một môi



trường thuận lợi cho các hệ động vật dưới nước và trên cạn nên việc trồng rừng không

thể làm giảm các tác động lâu dài tới nơi cư trú của chúng. Vấn đề khai thác và bảo vệ

tài nguyên rừng vẫn là một vấn đề rất gay cấn trong quản lý và phát triển các lưu vực

sông hiện nay.

Việc khai thác các nguồn lợi thủy sản của các sông cũng rất quan trọng đối với

phát triển kinh tế của các nước, thêm vào đó còn nguồn lợi thủy sản do nuôi trồng của

người dân sống ven sông và các vùng cửa sông. Thí dụ trên lưu vực sông Mê Kông

trong 120 loài thủy sản dưới nước có giá trị thương mại, thì có khoảng 30-50 loài được

xem là có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế. Cá và các loài động vật thủy sinh khác là

nguồn cung cấp protein rẻ nhưng có giá trị dinh dưỡng cao đối với người dân ở lưu vực

cũng như tạo ra nguồn thu cho xuất khẩu. Các sản phẩm thủy sản như tôm nước mặn

đóng góp đến 10% thu nhập ngoại hối của Việt Nam và là nguồn protein quan trọng

cho cuộc sống của người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long của nước ta.

Trên sông Mê Kông đánh bắt thủy sản góp đến 90% tổng sản lượng thủy sản thu

hoạch ở các vùng, còn nuôi trồng thủy sản chiếm 10% còn lại trong tổng sản lượng thủy

sản. Việc nuôi trồng thủy sản thường dưới các hình thức:



Nuôi trồng ở ao theo phương pháp truyền thống với quy mô nhỏ ở hộ gia

đình và các làng mạc;



Mô hình nuôi và nuôi trồng trong lồng chủ yếu ở trong sông vùng hạ lưu,

trong một số các hồ chứa nước;



Canh tác các mô hình tôm - lúa và cá - lúa không thâm canh trong các

vùng đồng bằng ngập nước trong mùa mưa lũ;



Nuôi trồng bán thâm canh hoặc thâm canh với mục đích thương mại tại

một số khu vực nuôi tôm cá tập trung ở khu vực của sông ven biển.

Hiện nay nhiều hoạt động của con người gây ảnh hưởng lớn tới số lượng cá của

các quần thể cá tự nhiên, như việc đánh bắt một cách rộng rãi hai loài cá da trơn

(catfish) ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng trung và hạ lưu các sông ven biển

miền Trung, trong đó phải kể đến hình thức đánh bắt cá có tính hủy diệt bằng xung điện

đang phổ biến và khó ngăn chặn trong thập kỷ gần đây. Điều này đã làm cho nguồn cá

của nhiều lưu vực sông đang bị suy kiệt và tổn thất nặng nề. Khi việc đánh bắt các loài

thủy sản trong các thủy vực sông hồ đã bị suy giảm thì việc mở rộng hoạt động nuôi

trồng thủy sản là tất yếu như tình hình thực tế ở nước ta trong những năm gần đây. Mặc

dù việc nuôi trồng thủy sản có thể bù đắp phần suy giảm sản lượng đánh bắt nhưng

cũng có một số vấn đề liên quan đến nuôi trồng thủy sản cũng cần phải xem xét và điều

chỉnh, thí dụ như là:



Mô hình nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ truyền thống trong những năm

gần đây cũng đã phát sinh các vấn đề về vệ sinh và Sức khỏe, làm tăng ô nhiễm nước.

Thí dụ thói quen sử dụng các chất thải của con người làm thức ăn cho cá tại một số nơi

của người dân đã làm lan truyền các bệnh trong môi trường nước.



Việc phát triển nuôi trồng thủy sản nếu không được quy hoạch đầy đủ sẽ

gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và sẽ không bền vững, không thể tránh khỏi đến việc

phá hủy hệ thực vật trên cạn. Thí dụ, phát triển quá mức nuôi tôm ở một số vùng cửa

sông ven biển của nước ta trong những năm gần đây cũng đã làm phá hủy môi trường



sống tại các vùng ngập mặn và giảm chất lượng nguồn nước vùng ven biển. Thí dụ

khác cũng có hậu quả tượng tự là việc phát triển quá mức nuôi tôm trên cát đang làm ô

nhiễm, suy thoái và nhiễm mặn nguồn nước ngầm nhiều khu vực cồn cát ven biển.

Ngoài các hoạt động phát triển nông lâm ngư nghiệp, trên lưu vực sông còn chứa

đựng nhiều nguồn khoáng sản quý giá và quan trọng cho phát triển kinh tế của đất

nước. Việc khai thác các mỏ khoáng sản đã tạo ra nhiều nguồn nguyên liệu, năng lượng

thiết yếu cho các hoạt động phát triển kinh tế của con người, tuy nhiên hoạt động này

cũng tiềm ẩn không ít nhũng nguy cơ và rủi ro môi trường nếu hoạt động đó không

được quy hoạch và quản lý chặt chẽ. Hiện nay, do hạn chế về nguồn tài chính cũng như

trình độ kỹ thuật mà việc khai thác các mỏ khoáng sản ở những nước chưa phát triển

còn ở mức độ thấp, nhưng theo dự đoán hoạt động này sẽ được đẩy mạnh nhanh hơn

trong tương lai. Thí dụ như Lào có nguồn khoáng sản lớn (như đá quý, thiếc) và công

nghiệp khai mỏ dự đoán sẽ tăng lên đáng kể trong thời gian tới. Việt Nam cũng có

nhiều mỏ khoáng sản quý như than (Quảng Ninh), Apatit (Lào Cai), thiếc (Cao Bằng),

các mỏ cao lanh và bôxit ở khu vực Tây Nguyên. Tại Campuchia có các mỏ đá quý, mỏ

vàng, bôxit và măng gan.

Các tài nguyên khoáng sản trên là nguồn động lực rất lớn cho phát triển kinh tế

các vùng trên các lưu vực sông. Tuy nhiên, hoạt động khai mỏ và xử lý quặng có thể

gây ra các tác động nghiêm trọng tới môi trường nếu chúng không được kiểm soát một

cách đúng đắn. Một số tác động tiêu cực có thể làm suy giảm chất lượng môi trường

sống của hoạt động khai thác mỏ như là:



Gây lắng đọng bồi lấp trong sông vùng hạ lưu khu mỏ.



Gây hủy hoại hệ thực vật của khu vực.



Làm biến đổi xấu cảnh quan khu vực, nhất là về mặt thẩm mỹ.



Làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm (như nước chảy từ các mỏ

axit ảnh hưởng đến chất lượng nước uống và nước cung cấp cho tưới tiêu và

thủy sản).



Làm tăng ô nhiễm không khí, như có thể góp phần tăng mưa axit.



Có các tác động thứ cấp khác như tác động tới giao thông, và nguồn năng

lượng thủy điện phục vụ công nghiệp luyện quặng.

Ngoài các tác động kể trên, việc sử dụng tài nguyên nước trên lưu vực sông có

vai trò đặc biệt to lớn đối với phát triển kinh tế của các tỉnh trên lưu vực và đóng góp

cho phát triển kinh tế chung của đất nước.

Một lưu vực sông có tiềm năng nguồn nước lớn là tiền đề rất thuận lợi cho phát

triển kinh tế của khu vực hơn rất nhiều so với lưu vực sông có tiềm năng nguồn nước

hạn chế hoặc đang bị đe dọa của sự thiếu nước.

Trong bối cảnh nước ta hiện vẫn là một nước nông nghiệp nên tài nguyên nước

của lưu vực sông ở nước ta hiện nay được sử dụng chủ yếu cho tưới. Tuy nhiên các nhu

cầu dùng nước khác như cho sinh hoạt, công nghiệp, du lịch, dịch vụ,... sẽ tăng lên theo

thời gian trong khi nước ta cố gắng trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Cho

mục tiêu phát triển này, nước vẫn là một tài nguyên thiết yếu và điều kiện không thể

thiếu, cần phải quản lý và bảo vệ một cách bền vững.



Ngoài sử dụng nước cho các nhu cầu trên, nước của sông còn có vai trò tạo

nguồn điện năng cho đất nước thông qua năng lực thủy điện của sông. Thí dụ trong các

sông của nước ta, nhiều lưu vực sông có tiềm năng thủy điện rất lớn và đang trong quá

trình khai thác như sông Đà, sông Lô ở khu vực phía Bắc, sông Đồng Nai, sông Ba ở

vùng ven biển miền Trung, sông Sê San, Serepok ở Tây Nguyên...



Động lực chủ yếu của phát triển thủy điện ở các lưu vực sông hiện nay là do nhu

cầu ngày càng tăng về điện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của các nước. Thí

dụ như ở nước ta hiện nay việc đầu tư cho khai thác nguồn thủy năng các lưu vực sông

là để đáp ứng yêu cầu năng lượng cho phát triển công nghiệp hiện tại và các giai đoạn

tới. Việc nhà nước đầu tư xây dựng công trình thủy điện Sơn La, Tuyên Quang và hàng

loạt các công trình thủy điện bậc thang trên sông Sê San như Yaly, Sê San 3, Sê San

3A, Pleikrông, Sê San 4 cho thấy tính cấp thiết cần khai thác của nguồn năng lượng này

đối với phát triển của đất nước hiện nay.

Dự án thủy điện nhất là dự án thủy điện lớn có khả năng gây ra nhiều ảnh hưởng

tới môi trường và xã hội. Mặc dù các dự án ngăn đập làm thủy điện có những hệ quả

tích cực về năng lượng, kiểm soát lũ và bổ sung dòng chảy thấp vào mùa khô, tuy nhiên

cũng cần xem xét cẩn thận các tác động tiêu cực như:



Sản lượng nông nghiệp giảm ở các khu vực hạ nguồn do giảm quá trình

bồi tích phù sa do giảm mức độ ngập nước hay do sự giảm khối lượng bùn cát lắng

đọng;



Giảm diện tích ở bờ sông hay diện tích các đảo phù hợp cho trồng trọt do

sự thay đổi dòng chảy ở hạ nguồn;



Ngập mất đất, rừng trong khu vực lòng hồ;



Làm giảm sản lượng thủy sản ở sông trong vùng hạ lưu;





Các tác động tiêu cực tới môi trường xã hội như phải di dời dân tới khu tái

định cư, hay làm gián đoạn các hoạt động nông nghiệp...

Thủy sản là đối tượng bị tác động nặng nề nhất do sự phát triển của thủy điện.

Các tác động tiềm ẩn tới thủy sản là do các nguyên nhân:



Sự biến đổi khác thường của mực nước sông ở hạ lưu không phù hợp với

đời sống của cá;



Các nguồn dinh dưỡng bị giữ lại trong hồ nên thủy sản ở hạ lưu bị ảnh

hưởng;



Nơi cư trú và môi trường sinh sản của cá bị tác động xấu do nhiều vùng

đất ngập nước ven sông không còn được duy trì như trước do chế độ lũ của sông bị biến

đổi;



Sự di chuyển của cá lên thượng nguồn đẻ trứng bị ngăn cản do đập ngăn

nước ngang sông.

Từ các phân tích trên có thể thấy các lưu vực sông và tài nguyên của lưu vực và

trong sông luôn có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của quốc gia. Việc khai

thác và sử dụng tài nguyên tự nhiên của sông là rất cần thiết nhưng cũng phải đúng

cách, không phá vỡ hoặc mất đi tình trạng tự nhiên, đồng thời cũng phải luôn xem xét

đánh giá tác động tiêu cực tới môi trường. Tài nguyên của lưu vực sông cần phải quản

lý sử dụng một cách tổng hợp theo chương trình hay kế hoạch quản lý lưu vực sông.

Cũng vì lẽ đó, vấn đề quản lý bảo vệ lưu vực cũng là một phần quan trọng trong chiến

lược phát triển kinh tế của đất nước, luôn được nhà nước rất quan tâm.

1.3. QÚA TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA QLLVS

Từ xa xưa khi con người bắt đầu sinh sống, khai thác tài nguyên môi trường trên

lưu vực, thì cũng đã có ý thức bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường trên các lưu

vực sông. Tuy nhiên các hoạt động đó thường đơn lẻ tự phát và chưa được tổ chức cụ

thể.

Vấn đề quản lý lưu vực sông chỉ được nêu lên và được Chính phủ các nước quan

tâm và coi đó là yêu cầu cần thiết phải thực hiện khi mà các tác động tiêu cực của các

hoạt động phát triển của con người để lại những hậu quả xấu tới môi trường, nhất là làm

gia tăng tình trạng suy thoái tài nguyên và môi trường các lưu vực sông, làm ảnh hưởng

đến phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Có thể nói rằng hầu hết các lưu vực sông trên thế giới đều trải qua một thời gian

dài được quản lý một cách riêng rẽ do nhiều ngành và nhiều người sử dụng tài nguyên

trong suốt quá trình phát triển của lưu vực sông. Đó là thực tế của việc quản lý và sử

dụng tài nguyên môi trường lưu vực sông trong nhiều thế kỷ trước đây, khi mà khái

niệm quản lý tổng hợp chưa ra đời và được coi trọng. Thực trạng này vẫn còn đang diễn

ra trên nhiều sông trên thế giới cũng như ở nước ta khi mà việc quản lý lưu vực sông

chưa được quan tâm hay mới chỉ bắt đầu tiếp cận nên chưa có được thể chế và chính

sách phù hợp.

Do yêu cầu cấp thiết của vấn đề quản lý lưu vực đáp ứng yêu cầu của phát triển

kinh tế xã hội, nhất là phát triển công nghiệp ở các nước phát triển trong thời đại công

nghiệp hoá, vấn đề quản lý lưu vực sông đã được đặt ra và được các nước quan tâm



ngay từ đầu thế kỷ 19 với sự ra đời của một số tổ chức lưu vực sông ở các nước công

nghiệp như Mỹ, Anh, Pháp... Trong thực tế vấn đề quản lý lưu vực sông thực sự được

thế giới quan tâm và thực hiện kể từ giai đoạn phát triển mạnh của kinh tế thế giới sau

chiến tranh thế giới thứ 2.

Hiện nay trên thế giới đã có hàng trăm tổ chức quản lý lưu vực sông được thành

lập và hoạt động nhất là trên các con sông quốc tế. Tình hình này đặc biệt phát triển

mạnh nhất là trong khoảng 30 năm trở lại đây.

Tại khu vực Đông Nam á, ủy ban quốc tế sông Mê Kông được thành lập năm

1957 với bốn nước thành viên là Thái Lan, Lào, Việt Nam và Campuchia.

Tại Trung Quốc, kế hoạch quản lý lưu vực sông đã được nhà nước thông qua và

hiện tại các lưu vực sông lớn như lưu vực sông Trường Giang, Hoàng Hà,... đều đã

thành lập các ban quản lý lưu vực các sông và hoạt động có hiệu quả.

Tại Inđônêxia (Indonesia), Nhà nước cũng đưa ra chính sách mới về quản lý

nước và quản lý lưu vực sông, trong đó quản lý nước được lấy trung tâm ở cấp lưu vực

và tập trung trách nhiệm quản lý nước thông qua sự tham gia và hợp tác hiệu quả của

các đối tượng hưởng lợi trên lưu vực. Một số ban quản lý lưu vực sông tại Indonesia đã

được thành lập. Các nước khác trong khu vực cũng đều bắt đầu tiếp cận thực hiện quản

lý lưu vực sông trong một hai thập kỷ qua.

Việc áp dụng cách tiếp cận quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông

để soạn ra các chính sách và chiến lược phát triển, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước

đã giúp cho tài nguyên nước ngày nay được xem xét trên cơ sở hệ thống. Cách tiếp cận

này cho phép những người sử dụng nước hiểu biết tốt hơn về các vấn đề thủy văn có

liên quan [IWMI, 2000].

Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960 quản lý lưu vực sông đã được Nhà nước

quan tâm với việc thành lập ủy ban trị thủy sông Hồng, một tổ chức có trách nhiệm quy

hoạch và quản lý tài nguyên nước cấp lưu vực đầu tiên ở nước ta nhưng hoạt động của

ủy ban này cũng còn nhiều hạn chế.

Quản lý tài nguyên nước ở nước ta cho đến nay vẫn chủ yếu là quản lý theo địa

giới hành chính và riêng rẽ do từng ngành sử dụng nước tự đảm nhiệm. Tình trạng đó

kéo dài cho đến năm 1998 khi Luật Tài nguyên nước ra đời đã nêu định hướng cho việc

thực hiện quản lý lưu vực sông.

Thực hiện Luật Tài nguyên nước, năm 2002 nhà nước đã thành lập 3 Ban quản

lý quy hoạch lưu vực của ba lưu vực sông lớn là lưu vực sông Hồng - Thái Bình, lưu

vực sông Đồng Nai và lưu vực sông Cửu Long.

Nhiều đề tài và dự án nghiên cứu về quản lý lưu vực sông đã được thực hiện do

các cơ quan trong nước và các tổ chức quốc tế như dự án của ADB cho lưu vực sông

Hồng, dự án Danida của chính phủ Đan Mạch cho lưu vực sông Serepok và lưu vực

sông Cả, dự án của Nhật quy hoạch quản lý lưu vực sông cho 12 lưu vực sông lớn của

nước ta,... Các đề tài và dự án này đã chuẩn bị tiền đề tốt cho việc tìm một mô hình phù

hợp cho thực hiện việc quản lý lưu vực sông ở nước ta. Vấn đề này sẽ được nêu rõ hơn

trong chương 6.



1.4. QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC, KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC

1.4.1. Khái quát

Nước là một tài nguyên thiết yếu nhất đối với tất cả các khía cạnh liên quan đến

sự phát triển của con người và hệ sinh thái trên lưu vực sông. Các tài nguyên khác như

đất và các tài nguyên sinh thái cũng phụ thuộc và có mối liên quan mật thiết với tài

nguyên nước trong quá trình sử dụng cũng như bảo tồn. Vì thế quản lý sử dụng nước là

một thành phần quan trọng của quản lý lưu vực sông và cần được quản lý theo đơn vị

lưu vực.

Để quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên nước, tài nguyên nước nhất thiết

phải được quản lý và sử dụng theo nguyên tắc tổng hợp, gọi tắt là quản lý tổng hợp tài

nguyên nước. Điều này được nêu lên trong chương 18 của Chương trình nghị sự 21

được các nguyên thủ quốc gia của 172 nước thông qua tại Hội nghị quốc tế về Môi

trường và Phát triển lần thứ nhất họp tại Rio de Janeiro (Braxin,1992) và là một trong

bảy chương trình lớn của “Chương trình hành động tổng hợp toàn cầu cho phát triển

bền vững” của Liên hợp quốc nêu lên trong hội nghị trên.

Thực hiện QLTHTNN là một bước đột phá của thế giới trong những thập kỷ

cuối của thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21 trong lĩnh vực khai thác sử dụng và quản lý tài

nguyên nước. ở Việt Nam, thực hiện QLTHTNN là một trong những hoạt động mang

tính chiến lược để PTBV tài nguyên nước đã quy định trong Luật Tài nguyên nước.

Tháng 3/2000, tại diễn đàn nước thế giới lần thứ hai họp tại Hague (Hà Lan), tầm nhìn

về nước thế giới thế kỷ 21 đã được thảo luận rộng rãi và một tuyên bố về “Tầm nhìn về

nước, cuộc sống và môi trường ” với tiêu đề tổng quát là “tiến tới một thế giới an ninh

về nước trong thế kỷ 21” đã được thông qua, trong đó có 6 chỉ tiêu thế giới cần thực

hiện từ nay đến năm 2015, trong đó QLTHTNN được nêu đầu tiên.

Thực hiện QLTHTNN các lưu vực sông là một vấn đề rất phức tạp và phải thực

hiện trong một quá trình lâu dài. Đó cũng là mục tiêu mà nước ta cũng phải từng bước

thực hiện trong các giai đoạn tới. Trải qua gần mười năm, nhiều nước trên thế giới, nhất

là các nước phát triển đã có nhiều chương trình và hoạt động tích cực để thực hiện

QLTHTNN ở nước mình và đã thu được những kết quả ban đầu rất khả quan.



Hộp 1-1: Tầm nhìn an ninh về nước thế kỷ 21 của Việt Nam

Trong "Tầm nhìn an ninh nước thế kỷ 21 của Việt Nam" thông qua

năm 2000 với tiêu chí "Sử dụng tổng hợp, bảo vệ tài nguyên nước vững

bền và phòng chống có hiệu quả các tác hại về nước" đã đưa ra bảy thông

điệp trong đó có ba thông điệp liên quan đến quản lý sử dụng bền vững

tài nguyên nước đó là:

Đủ nước cho an ninh lương thực và phát triển kinh tế xã hội.

Định giá nước hợp lý.

Cộng tác nhiều bên để quản lý thống nhất và tổng hợp tài nguyên

nước có hiệu lực và hiệu quả.

Tầm nhìn an ninh về nước thế kỷ 21 của Việt Nam cũng vạch ra

một khung hành động gồm bốn chiến lược, trong đó chiến lược đầu tiên

cũng là thực hiện QLTHTNN:

Thực hiện quản lý thống nhất tổng hợp tài nguyên nước để bảo

đảm nước cho dân sinh, kinh tế, xã hội, vững bền môi trường và phòng

chống lũ lụt.

Thực hiện quản lý thống nhất tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực

sông.

Nâng cao nhận thức và ý chí chính trị, tăng cường thể chế và

năng lực để thực hiện quản lý thống nhất tổng hợp tài nguyên nước.

Bảo đảm dịch vụ nước hoạt động hiệu quả.

1.4.2. Khái niệm quản lý tổng hợp tài nguyên nước

Quản lý tài nguyên nước

Quản lý tài nguyên nước theo Savanije [1997] là “tập hợp tất cả các hoạt động

thuộc về kỹ thuật, tổ chức, quản lý và vận hành cần thiết để quy hoạch, xây dựng các

công trình sử dụng nguồn nước cũng như thực hiện quản lý nguồn nước của lưu vực

sông”.

Như vậy, quản lý tài nguyên nước bao gồm tất cả các hoạt động từ quy hoạch,

thiết kế, xây dựng, và vận hành khai thác các hệ thống nguồn nước và là hoạt động gồm

nhiều thành phần, nhiều mục tiêu và có nhiều ràng buộc.

Quản lý tổng hợp tài nguyên nước

QLTHTNN ra đời thay thế cho khái niệm quản lý nguồn nước truyền thống.

Khái niệm này đang tiếp tục được bổ sung và phát triển, hiện vẫn đang còn những ý

kiến tranh luận. Trong Chương 18 của Chương trình nghị sự 21 có nêu rõ "Quản lý tổng

hợp tài nguyên nước dựa trên nhận thức nước là một bộ phận nội tại của hệ sinh thái,

một nguồn tài nguyên thiên nhiên và một loại hàng hóa kinh tế và xã hội, mà số lượng

và chất lượng quyết định bản chất của việc sử dụng. Vì mục đích này, tài nguyên nước

cần phải được bảo vệ, có tính đến chức năng của các hệ sinh thái nước và tính tồn tại

mãi mãi của tài nguyên, để có thể thỏa mãn và dung hòa các nhu cầu về nước cho các

hoạt động của con người". Sau đây là một số định nghĩa cụ thể của QLTHTNN.

Mitchell [1990] đã đưa ra định nghĩa “QLTHTNN là một quá trình giải quyết

vấn đề quản lý sử dụng nước cắt ngang tất cả các thành phần của chu trình thủy văn,



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

×