Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 527 trang )
1. Hồ Chí Minh xuất hiện ở vào thời điểm gạch nối giữa các thời kỳ lịch
sử t tởng của dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một đất nớc nô lệ, tính từ khi
chào đời năm 1890 đến khi nớc nhà giành đợc độc lập năm 1945. Ngời
ta đã dùng hình ảnh để chỉ rõ tình cảnh này là: tiếng khóc chào đời của cậu
bé Nguyễn Sinh Cung (tên lúc mới sinh của Hồ Chí Minh) cũng là tiếng
khóc uất tủi của một ngời dân mất nớc. Có lẽ không có dân tộc nào, hoặc
nói một cách dè dặt hơn, là hiếm có một dân tộc nào trên thế giới nh dân
tộc Việt Nam, trong suốt cái trục thời gian hàng bao thế kỷ của sự phát
triển, lại buộc phải đơng đầu với nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc cũng nh những cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách chiếm đóng của
ngoại bang đến nh vậy.
Chiến tranh liên miên là điều không ai muốn. Vòng nguyệt quế của
ngời chiến thắng bao giờ cũng đợc tết từ bao gian truân, nghiệt ngã, có
khi từ núi xơng sông máu nhiều thế hệ. Nhng, cây muốn lặng mà gió
chẳng đừng. Việt Nam bị không may và cũng bị thiệt thòi bởi bao phen
gơm đao súng đạn tràn qua biên ải. Khói lửa của những cuộc chiến tranh
nhiều khi kéo lùi bớc tiến của dân tộc Việt Nam lại hàng bao nhiêu năm
không dễ gì bù đắp nổi. Nếu không có chiến tranh, chắc chắn dân tộc-quốc
gia Việt Nam hiện nay đã là một trong những nớc đứng ở trong tốp đầu
tiên của sự phát triển trên thế giới. Chiến tranh có sức ỳ và sức kéo trở lùi
mạnh ghê gớm lắm. Nhng, có một giá trị an ủi cho dân tộc Việt Nam đợc
một phần nào là qua những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm: đã xuất hiện,
tồn lu và nâng cao giá trị văn hoá chủ nghĩa yêu nớc. Nó nh viên ngọc
sáng nhất trong cái tàn khốc của những cuộc chiến.
Lịch sử đã ghi nhận khoảng 20 lần trong 22 thế kỷ nhân dân Việt Nam
đứng lên chống giặc ngoại xâm, tiêu biểu nhất là:
- Chống Tần (từ khoảng năm 214 đến năm 208 trớc Công nguyên).
- Chống Triệu (thế kỷ II trớc Công nguyên)1.
1
Có một số ý kiến hiện nay xếp nhà Triệu vào triều đại chính thức trong lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam. Sử sách nớc ta từ trớc đến nay có những quan niệm khác nhau
về các vơng triều. Phần nhiều coi nhà Triệu ngang hàng với các triều đại khác. Ngay cả
44
- Khởi nghĩa của nhân dân do Khúc Thừa Dụ lãnh đạo năm 905 giành
chính quyền, dựng nền tự chủ, chấm dứt thời kỳ hơn 1000 năm Bắc
thuộc.
- Ngô Quyền lãnh đạo chống quân xâm lợc Nam Hán năm 938.
- Lê Hoàn lãnh đạo chống Tống xâm lợc năm 981.
- Triều nhà Lý lãnh đạo chống quân Tống xâm lợc (1075-1077).
- Triều nhà Trần lãnh đạo chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258).
- Triều nhà Trần lãnh đạo chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285).
- Triều nhà Trần lãnh đạo chống Nguyên Mông lần thứ ba (1287
1288).
- Triều nhà Lê lãnh đạo chống quân Minh xâm lợc (1418 1427).
- Tây Sơn lãnh đạo chống quân Xiêm xâm lợc (1784 1785).
- Tây Sơn chống quân Thanh xâm lợc (1788 1789).
- Chống Pháp, giành độc lập dân tộc (1858 1945).
- Chống Pháp tái xâm lợc và can thiệp Mỹ (1946 1954).
- Chống Mỹ xâm lợc (1954 1975).
- Chống chiến tranh, xung đột biên giới (1975 1979).
Đó là mới kể những cuộc đấu tranh lớn. Mà toàn là đụng với những
tên đầu sỏ, mạnh nhất nhì thế giới lúc bấy giờ cả. ở Mông Cổ, Thành Cát
T Hãn thống nhất các bộ lạc chiến binh ở Trung Bắc á để thành lập nên
một đế chế hùng mạnh vào năm 1206. Vào lúc phát triển nhất, hậu duệ của
Thành Cát T Hãn đã mở rộng cơng vực đế chế của mình. Vó ngựa của
quân Mông Cổ đã cất lên trên con đờng đi chinh phục ở châu á, châu Âu,
cả một dải lãnh địa mênh mông tới 35 triệu kilômét vuông, bao gồm Trung
Quốc, phần lớn châu Âu (lãnh địa Nga, Irắc, Iran... hiện nay) chịu thuần
phục trớc sức mạnh của các chiến binh thiện nghệ Mông Cổ (Nhng chính
Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 xếp nhà Triệu vào trong hàng ngũ các
triều đại phong kiến Việt Nam chống giặc ngoại xâm:
Xét nh nớc Đại Việt ta
Thực là một nớc văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nớc
Cùng Hán, Đờng, Tống, Nguyên đều chủ một phơng
(Xem thêm: Tạ Chí Đại Trờng: Thần, ngời và đất Việt, Nxb Văn hoá-Thông tin, Hà
Nội, 1999 và Tạp chí Xa và Nay, số 265, VIII-2006).
45
nền văn minh của những kẻ xâm lợc lại bị đồng hoá bởi các nền văn hoá
của những nớc bị chiếm đóng).
Cũng sức mạnh ấy, quân Nguyên Mông đã chịu bại trận ở Việt Nam.
Rồi quân Thanh mạnh đến nh vậy, đặc biệt là quân Pháp và quân Mỹ với
nền kinh tế, quân sự hùng hậu đến nh thế đành chịu thua một dân tộc Việt
Nam nhỏ bé, nhng gan góc, kiên cờng đến kỳ lạ. Trong thời kỳ đấu tranh
chống sự xâm lợc của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã đứng lên
ngay từ buổi đầu khi chúng đến nớc ta. Rồi sau đó là phong trào Cần
Vơng. Triều đình nhà Nguyễn nói chung ơn hèn, nhng cũng đã có ba
ông vua tự nguyện ra bng biền ăn cá mắm, ăn cơm nắm, chịu bao phen
khổ ải đứng cùng nhân dân kháng Pháp (Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân).
Ngọn lửa chống xâm lợc của Phong trào Cần Vơng bị thực dân Pháp dập
tắt vào năm 1896 sau hơn 10 năm nhen nhóm (đối với ngọn lửa chống Pháp
của nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo thì mãi đến năm
1913 mới bị dập tắt), nhng tinh thần yêu nớc của toàn dân tộc Việt Nam
không bao giờ bị lụi.
Đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nớc mới xuất hiện. Nó mới về
con ngời lãnh đạo, nhng quan trọng hơn là nó mới cả về tính chất, về hệ
t tởng và đơng nhiên là cả cách tổ chức lực lợng. Chống thực dân Pháp
để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc nghìn đời yêu quý, để cởi bỏ ách áp
bức ngoại bang thì tất cả các phong trào kháng Pháp đều giống nhau.
Nhng chống Pháp rồi để thiết lập một chế độ chính trị gì, xây dựng nhà
nớc Việt Nam nh thế nào, tập hợp lực lợng nào, theo sự chỉ dẫn của t
tởng nào thì khác nhau một trời một vực. Mợn danh nghĩa của nhà vua để
dấy lên các làn sóng đấu tranh lật nhào sự thống trị của thực dân Pháp rồi
lại trở lại củng cố chế độ phong kiến đã hết thời (Cần Vơng) thì là không
hợp xu thế. Nh thế, bại là khó tránh.
Thay thế cho Cần Vơng là những phong trào theo hệ t tởng t sản
trong luồng gió mới do những trí thức yêu nớc mẫn cảm với thời cuộc
đứng ra khởi xớng và lãnh đạo. Dù thực dân Pháp và phong kiến Việt Nam
cố tình bng bít thế nào đi chăng nữa, nhng t tởng dân chủ t sản vẫn
vào đợc Việt Nam chủ yếu do ba tác nhân: 1. Con đờng tân văn, tân th
của các trào lu t tởng t sản trên thế giới qua các tác phẩm của Trung
Hoa phản ánh những t tởng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789, của
46
Cách mạng Nga (1905 1907), nhất là âm hởng hào hùng từ Cách mạng
Tân Hợi (năm 1911) do Tôn Trung Sơn lãnh đạo; 2. Qua các phong trào duy
tân, yêu nớc của các bậc chí sĩ vốn từ các sĩ phu phong kiến chuyển làn
sang t tởng t sản, nh hai Cụ Phan Phan Bội Châu nổi tiếng với Phong
trào Đông Du, Phan Châu Trinh nổi tiếng với duy tân, cải lơng khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh; 3. T tởng dân chủ t sản còn vào Việt
Nam bằng chính con đờng chính ngạch trực tiếp từ chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp, từ quá trình du nhập phơng thức sản xuất t
bản chủ nghĩa vào thuộc địa Đông Dơng.
Nhiều sĩ phu yêu nớc đã bắt gặp đợc với t tởng dân chủ t sản qua
một số sách báo tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa, nhng cái chính nhất là ngọn
lửa yêu nớc nhiệt thành của họ vẫn cứ luôn luôn đợm cháy. Sự xuất hiện
t tởng t sản ở Việt Nam còn là từ con đờng tự nhiên của tất yếu giao
lu văn hoá giữa các dân tộc, bởi Việt Nam là một vùng địa chính trị nhạy
cảm, một đất nớc án ngữ trên các ngả đờng giao lu của rất nhiều quốc
gia trên thế giới.
Trong khi Việt Nam thất bại sau bao phen đứng lên chống ách đô hộ
của thực dân Pháp theo con đờng Cần Vơng phong kiến thì ở nớc láng
giềng phơng bắc, sau chiến tranh Trung Quốc Nhật Bản, một trào lu cải
cách t sản nổi lên mạnh mẽ. Một loạt tác phẩm dân chủ, cách mạng
phơng Tây đợc dịch ra tiếng Hán. Một loạt trờng học, cơ quan báo chí,
xuất bảntheo t tởng dân chủ t sản phơng Tây đợc lập ra. Một trào
lu nhng có hai nhánh: nhánh Cờng học hội do Khang Hữu Vi, Lơng
Khải Siêu đứng đầu chủ trơng cải cách, đổi mới (duy tân) chế độ phong
kiến Mãn Thanh để cải biến lên chính thể dân chủ t sản; nhánh Hng
trung hội do Tôn Trung Sơn đứng đầu tập hợp các trí thức Tây học chủ
trơng đánh đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh, lập chính phủ t sản cộng
hoà dân quốc.
Các tân th, tân văn của Trung Quốc vào Việt Nam bắt đầu từ những
năm 90 của thế kỷ XIX, lúc đầu chủ yếu là qua các cửa khẩu, bến cảng, đến
những nơi đông đồng bào Hoa kiều có tổ chức cách mạng. Các nhà nho
Việt Nam, nhiều thanh niên Việt Nam nặng lòng yêu nớc đang bế tắc về t
tởng bắt gặp tân th, tân văn nh bắt gặp luồng sinh khí mới. Họ bắt đầu
làm quen với những t tởng của Thế kỷ ánh sáng, khoa học kỹ thuật,
47
những t tởng của Xôcrát (Socrate - lúc này dịch là Tô Cách Lạp), Platôn
(Platon - lúc này dịch là Bá Lạp Đề), Môngtexkiơ (Montesquieu - lúc này
dịch là Mạnh Đức T Cu), Đácuyn (Dawin - lúc này dịch là Đạt Nhĩ Văn),
Arixtốt (Aristote - lúc này dịch là á Lý Sĩ A Đức), Rútxô (Rousseau - lúc
này dịch là L Thoa), Ađam Xmít (Adam Smith - lúc này dịch là T Mật á
Đam)Đó là các nhà t tởng và nhà triết học mang tính khai sáng. Còn
các nhà cách mạng cũng đợc truyền bá, giới thiệu qua tân th, tân văn mà
các trí thức Nho học cuối mùa của Việt Nam biết đến. Đó là Oasinhtơn
(Washington), Napôlêông (Napoléon), Pie Gran (Pieer Grand), Garibanđi
(Garibandi)... Cha thấy xuất hiện bất kỳ một tác phẩm nào của Mã Khắc
T (Các Mác). Những tri thức qua tân văn, tân th đợc thấm vào đầu các sĩ
phu thức thời nhng có phần không hệ thống, nó theo lối tự nhiên chủ
nghĩa, nhng vì là rất mới và rất lạ cho nên gây cho họ óc hào hứng, thức
tỉnh đầu óc u mê của Nho học. Chính vì vậy, nhiều học trò đã bỏ học giữa
chừng, đoạn tuyệt với giáo dục theo lối Nho học và nhiều ngời tìm cách
xuất dơng, trớc hết sang Trung Quốc, sang Nhật Bản, sang Xiêm.
Trong lịch sử, chúng tôi đánh giá cao sự ảnh hởng của tân văn, tân
th vào Việt Nam. Nó lớn lắm. Khi Lơng Khải Siêu bên đất Trung Quốc
qua đời, báo Thần Chung (ở Sài Gòn) ngày 25-1-1929 viết nh thế này:
Tân Âm băng (của Lơng Khải Siêu tiên sinh) với sĩ phu (Việt Nam) lúc
nọ chẳng khác chi thang thuốc hay với ngời bệnh trầm kha, còn Trung
Quốc hồn là một tập sách vài mơi trang mà thay đổi lòng ngời nh
chớp, một tập sách nói chuyện nớc Tàu mà làm cho 20 triệu dân Nam
phấn khởi. Còn trớc đó, cũng trong báo Thần Chung ngày 8-1-1929, có
viết: Những Thanh nghị báo, Tân dân tùng báo, án băng thất, Tự
do th, Trung Quốc hồn đã đánh thức đám sĩ phu ta gần nh trực tiếp, vì
trong đó nói chuyện nớc Tàu mà có nhiều chỗ trúng bệnh ngời mình
lắm. Phong trào Duy tân của Việt Nam với những Đông Kinh Nghĩa Thục,
những cuộc vận động đời sống mới đầu thế kỷ XX rầm rộ khắp bắc, trung,
nam chính là chịu ảnh hởng từ luồng dân chủ t sản này.
Đông Kinh Nghĩa Thục đợc thành lập, đợc bắt đầu khai giảng vào
tháng 3 năm 1907 ở phố Hàng Đào, ngay trung tâm Hà Nội, có giấy phép
của nhà cầm quyền Pháp hẳn hoi và có ảnh hởng tới xu hớng canh tân
của cả nớc. Đây là nhà trờng nhng nó là cả một phong trào học tập theo
48
lối mới. Nó không học theo lối nhồi sọ, tầm chơng trích cú. Chơng trình
giảng dạy và học tập của Đông Kinh Nghĩa Thục dựa theo lối tân học của
Trung Quốc, Nhật Bản. Sách báo yêu nớc, tiến bộ đợc dùng rộng rãi, đặc
biệt là các sách báo nớc ngoài gửi về, trong đó có tân th, tân văn từ Nhật
Bản, Trung Quốc. Nhà trờng dạy cả toán, địa lý, lịch sử, văn chơng, giáo
dục công dân, thể dục thể thaoNếu học sinh đã nhiều tuổi và đã thông
thạo chữ Hán thì dùng các tân th của Trung Quốc làm tài liệu, còn đối với
những học sinh khác thì tài liệu đợc soạn để dạy và học là cả chữ Hán và
chữ quốc ngữ. Trọng tâm của phong trào là khơi dậy tinh thần yêu nớc,
đánh đổ t tởng hủ lậu, đả phá những t tởng của sĩ phu thủ cựu, truyền
bá khoa học kỹ thuật, chú trọng thực nghiệp, chấn hng công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, chấn hng thơng mại. Các hội buôn, hội học, hội
càyđợc lập ra.
Tuy chỉ tồn tại đợc vẻn vẹn 9 tháng trời (từ tháng 3 đến tháng 121907) do thực dân Pháp, một loại thực dân bảo thủ, nặng về khai thác thuộc
địa và t bản tài chính cho vay nặng lãi, đàn áp, nhng Đông Kinh Nghĩa
Thục cũng nh t tởng duy tân - đổi mới đã kích lên lòng tự tôn dân tộc,
cứa vào lòng dân Việt để bật ra một ý chí vơn lên cho bằng thiên hạ. Thiên
hạ làm đợc, thì nớc Nam này tại sao không! Muốn thế thì phải từ bỏ chế
độ phong kiến để dựng xây một nền dân chủ mới, mà chúng ta sau này
thờng gọi là dân chủ t sản. Nó là nền dân chủ theo các bậc đàn anh t sản
bên trời Âu, những Mạnh Đức T Cu, những L Thoa, và dân chủ theo
kiểu ông Khang Hữu Vi, Lơng Khải Siêu ở bên Tàu. Rồi sau nữa có ảnh
hởng mạnh theo kiểu dân chủ của ông Tôn Trung Sơn, dùng bạo động
đánh đổ chế độ phong kiến hàng nghìn năm để dựng xây nền dân chủ cách
mạng, dân chủ t sản với chủ nghĩa tam dân: dân tộc độc lập, dân quyền tự
do, dân sinh hạnh phúc. Cái dân chủ này có lúc nó tiến gần với mácxít, đã
có lần Liên Nga, dung cộng, ủng hộ công nông nhng về bản chất thì
chúng khác nhau quá, không thể hợp với nhau đợc.
ảnh hởng của t tởng t sản qua các phong trào yêu nớc của các sĩ
phu phong kiến chuyển làn sang t tởng t sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
khá rõ nét. Tiêu biểu nhất là ảnh hởng từ Nhật Bản của Phong trào Đông
Du gắn liền với tên tuổi một con ngời nổi tiếng của đất Việt là Phan Bội
Châu. Chính Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá Cụ Phan Bội Châu, vốn là bậc
49
cha chú của mình, ngời cùng huyện Nam Đàn, bạn với cụ Nguyễn Sinh
Sắc, rằng: Cụ Phan Bội Châu là một đấng thiên sứ, ngời anh hùng xả thân
vì độc lập dân tộc, ngời đợc hơn 20 triệu dân Việt Nam tôn sùng. Phan
Bội Châu là một con ngời uyên bác, a hoạt động cách mạng, bôn ba
nhiều nơi, nhiều nớc. Ông lập ra Hội Duy Tân năm 1904. Ông lập ra nhiều
tổ chức cách mạng nữa. Nhng, nói đến Phan Bội Châu mà không nói đến
Phong trào Đông Du thì quả là sai lầm. Trong con mắt của Cụ Phan Bội
Châu, một nớc Nhật Bản đồng chủng, đồng văn hùng dũng tiến bớc dới
ánh sáng của một nền dân chủ t sản là một khích lệ vĩ đại, gây cho Cụ và
các đồng chí của Cụ một lòng ngỡng mộ, tự hào, và coi Nhật Bản là một
tấm gơng lớn để noi theo.
Cụ Phan Bội Châu muốn có một nền dân chủ cộng hoà, muốn bạo
động đánh đổ chế độ phong kiến. ở Nhật Bản, Cụ đã viết nhiều tác phẩm
gửi về nớc, điển hình là: Việt Nam vong quốc sử, Khuyến quốc dân tự
trợ du học văn, Hải ngoại huyết th, Th gửi những ngời trong nớc,
Việt Nam quốc sử khảo, v.v. Cụ gặp gỡ các nhà cách mạng, củng cố t
tởng dân chủ t sản theo chế độ cộng hoà đại nghị, đoạn tuyệt hẳn với chế
độ quân chủ. Cụ bày tỏ quan điểm của mình trong cuốn Tân Việt Nam
(năm 1907): Tôi từ khi sang Nhật Bản, đợc nghiên cứu nguyên nhân cách
mạng nớc ngoài và chính thể các nớc, thì rất say sa với lý luận của L
Thoa. Vả lại, đợc giao thiệp với nhiều đồng chí Trung Hoa nên trong đầu
óc tôi đã xếp t tởng quân chủ vào một xó. Cụ cho rằng: Phàm dân nớc
ta, không kể sang hèn, giàu nghèo, già trẻ đều có quyền bầu cử; Hình
pháp, chính lệnh, thuế khoá, tiêu dùng đều do Nghị viện quyết định. Mà
đâu chỉ có sách và bài vở của Cụ Phan Bội Châu gửi về nớc. Còn rất nhiều
anh em lu học sinh ở Nhật Bản, vốn là con em của các bậc sĩ phu khắp đất
nớc, cũng gửi về nữa (Riêng năm 1905, đã có tới 200 lu học sinh của
Việt Nam đang học tại Nhật Bản theo Phong trào Đông Du).
Sáng nhất và đáng khâm phục nhất, dẫn đầu các phong trào yêu nớc
đa dạng, phong phú, sôi nổi nh sóng cồn đầu thế kỷ XX nh trên chúng tôi
đã đề cập là phong trào của hai Cụ Phan: Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh. Phong trào do Phan Bội Châu lãnh đạo với mục đích giành độc lập
dân tộc theo cộng hoà đại nghị t sản với phơng pháp bạo động vũ trang.
50
Cụ và các cộng sự của Cụ đã tạo ra các phong trào Đông Du (1906 1908),
Việt Nam Quang phục hội (1912)
Còn Cụ Phan Châu Trinh thì cũng muốn lập ra một chế độ đại nghị t
sản, nhng phơng pháp khác hẳn Cụ Phan Bội Châu, đó là phơng pháp
Bất bạo động, bạo động tắc tử. Cụ và các cộng sự của Cụ hoạt động
không mệt mỏi để Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh (Khai dân trí:
bỏ lối học tầm chơng trích cú, mở trờng dạy học chữ quốc ngữ, kiến thức
khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần
tự lực tự cờng, mọi ngời giác ngộ đợc quyền lợi của mình, giải thoát
đợc nọc độc chuyên chế. Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai
hoang làm vờn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hoá).
Không phụ tinh thần của Cụ, hàng loạt phong trào yêu nớc đã dấy
lên: Phong trào Duy Tân (1906 1908), Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907)Có thể nói rằng, đó là những khai sáng, đổi mới có hiệu quả đối
với xã hội Việt Nam phong kiến tăm tối lúc bấy giờ. Phong trào Cụ Phan
Bội Châu bạo động vũ trang thì bị thực dân Pháp đàn áp đã đành. Nhng,
phong trào có tính chất ôn hoà, bất bạo động của Cụ Phan Châu Trinh cũng
làm cho thực dân Pháp với chính sách kìm hãm dân bản xứ vào vòng tăm
tối, chính sách làm cho dân ngu để dễ trị" không hài lòng. Chính quyền
phong kiến Việt Nam câu kết với thực dân Pháp bắt Cụ Phan Châu Trinh tại
Hà Nội ngày 31-3-1908, giải về Huế. Hội đồng xét xử của Nam triều kết án
Cụ vào tội chém, nhng do sự can thiệp của một số ngời Pháp có thiện chí
cùng với ý kiến của những đại diện Liên minh nhân quyền tại Hà Nội,
chính quyền thực dân-phong kiến buộc Cụ Phan Châu Trinh đày ra Côn
Đảo, làm ngời đập đá ba năm ở Côn Lôn (1908 1910), sau này Cụ sang
sống ở Pháp một thời gian khá dài (1910 1926), hoạt động yêu nớc ở đó
cùng nhóm với Tiến sĩ, Luật s Phan Văn Trờng và có thời gian cùng với
Nguyễn ái Quốc.
Xã hội Việt Nam biến đổi, tuy chậm chạp, nhng với những sắc thái
mới do nhịp độ ngày càng tăng của chính sách khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp một loại thực dân của t bản tài chính, cho vay nặng lãi, ít chú ý
tới mở mang, xây dựng ở bản xứ, chỉ chăm chăm lo vơ vét, bóc lột thuộc
địa. Đầu thế kỷ XX, dù sao có muộn nhng các giai cấp, tầng lớp mới đã
xuất hiện, đó là giai cấp công nhân, tiểu t sản, trí thức; riêng giai cấp công
51
nhân xuất hiện trớc cả giai cấp t sản dân tộc. Nhiều sĩ phu thức thời, vốn
thuộc thành phần giai cấp phong kiến, sau bao trăn trở và sau bao tháng
năm chìm trong nền Nho học, đã tỉnh ngộ, chuyển mình sang lập trờng t
tởng mới lập trờng dân chủ t sản. Chế độ thực dân đã đẻ ra, ngoài ý
muốn, một t tởng dân chủ t sản và cắm nó vào mảnh đất hiện thực của
Việt Nam. Chế độ đó trực tiếp cho ra lò một loạt trí thức, công chức với
mục đích hiến dâng cho sự nghiệp của mẫu quốc, nhng lại tạo ra một
sức bật mới, bứt ra khỏi hệ t tởng phong kiến và rồi trong số họ về sau
còn tiến xa hơn nữa, tức là dấn thêm một bớc quan trọng, vợt hẳn về chất,
vào con đờng cách mạng vô sản.
Ngọn cờ cứu nớc theo hệ t tởng phong kiến bị gẫy gục. Ngọn cờ
cứu nớc theo hệ t tởng t sản mới giơng lên cũng bị thực dân Pháp bẻ
gẫy. Anh dũng có thừa. Máu đào của các bậc tiên liệt đã đổ xuống nhng
cây độc lập, tự do cho Tổ quốc, cho nhân dân không ra hoa kết trái. Một
ngọn cờ mới đợc giơng lên. Đó là ngọn cờ cứu nớc theo hệ t tởng vô
sản, theo chủ nghĩa Mác Lênin ngọn cờ đúng nhất, phù hợp nhất với con
đờng tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Và nó đã hiện hữu trên mảnh đất
cong cong hình chữ S. Ngời giơng cao ngọn cờ đó là Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nh vậy, bối cảnh xuất hiện nhà t tởng Hồ Chí Minh chứa đựng
những nét đặc điểm:
Một là, một đất nớc Việt Nam lắm giặc giã đến cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX lại bị thực dân Pháp xâm chiếm.
Hai là, Hồ Chí Minh là ngời dân bị mất nớc, Việt Nam bị xoá tên
trên bản đồ chính trị thế giới.
Ba là, bao phen và bao ngời nhiệt thành yêu nớc đứng lên đấu tranh
giành độc lập, tự do cho Tổ quốc nhng đều thất bại.
Bốn là, thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của Việt Nam là một
thời kỳ đen tối bởi ách thống trị thực dân phong kiến, nhng cũng là thời
kỳ ken dày những yếu tố chuyển mình, nảy nở những t tởng mới. Và, với
t chất riêng có của mình, Hồ Chí Minh là ngời tiên phong mở đờng, dẫn
đờng phát triển cho dân tộc.
52
Năm là, chính là ở thời kỳ có bớc ngoặt với nhiều biến chuyển dữ dội
về t tởng, Hồ Chí Minh do chính yêu cầu của lịch sử, đã trở thành, trớc
hết là cái gạch nối, và sau nữa trở thành chủ thể của luồng t tởng đúng
đắn, luồng t tởng mang tên mình, có tác dụng dẫn dắt cho dân tộc Việt
Nam đi lên trên con đờng tiến bộ.
2. Đất nớc vừa có chiến tranh vừa có hoà bình
Bối cảnh này cho chúng ta thấy ít nhất hai điều:
Một là: bối cảnh đó làm cho t tởng Hồ Chí Minh bao quát đợc một
cách toàn diện các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và xuyên suốt đợc cả một
quá trình từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa cộng
sản. Đó là quá trình giành đợc độc lập dân tộc, chấm dứt đợc thời kỳ đen
tối, xây dựng đất nớc Việt Nam theo định hớng cộng sản chủ nghĩa.
Có thể nói, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh dồn sức cho việc tìm con
đờng cứu nớc đúng đắn và đã tìm thấy con đờng cách mạng vô sản. Sau
đó, Ngời tìm mọi cách áp dụng con đờng đó vào Việt Nam, đã cùng
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân giành đợc độc lập dân tộc. Kế
theo đó, Hồ Chí Minh dồn sức cho các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nớc. Bối cảnh đó đã làm cho nhà t
tởng Hồ Chí Minh hớng cuộc đời đi sâu vào sự nghiệp đấu tranh trong
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiều quan điểm, t tởng của
Hồ Chí Minh đã nẩy sinh và phát triển trong lò lửa này.
Nhng, nh thế không có nghĩa là Hồ Chí Minh không có những quan
điểm, t tởng về xây dựng một chế độ xã hội mới, trớc mắt là xã hội xã
hội chủ nghĩa. Bối cảnh đó làm xuất hiện những quan điểm của Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội và con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam; về xây dựng Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nớc của dân, do
dân, vì dân; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; về đạo đức, nhân văn,
văn hoá, v.v.
Loại ý kiến cho rằng, Hồ Chí Minh chỉ mạnh về các thời kỳ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, còn không có nhiều quan điểm sáng giá
53
về thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, là không đúng. Trong lĩnh vực cách
mạng giải phóng dân tộc, đúng là Hồ Chí Minh là ngời vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin rất rõ rệt. Nhng trong thời kỳ hoà bình
xây dựng, vừa tiến hành chiến tranh giải phóng, vừa xây dựng đất nớc theo
định hớng xã hội chủ nghĩa (vừa kháng chiến, vừa kiến quốc), Hồ Chí
Minh cũng là ngời có nhiều cống hiến xuất sắc, làm giàu kho tàng lý luận
Mác - Lênin. Càng ngày, khi đất nớc Việt Nam tiến sâu vào sự nghiệp đổi
mới, nhất là trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, thì những quan điểm
của Hồ Chí Minh càng toả sáng hơn. Trên bình diện quốc tế cũng vậy.
Nhiều giá trị về chủ nghĩa xã hội hiện đại mà Hồ Chí Minh đã nêu lên, tuy
cách đây trên dới nửa thế kỷ nhng, lạ thay, thấy biểu hiện ở ngay cả quan
niệm của nhiều nhà lãnh đạo phái tả ở châu Mỹ latinh khi tuyên bố và thực
thi Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI. Trớc đó, Singô Sibata, một học giả
ngời Nhật Bản, đã nhận định rằng: Hồ Chí Minh đã có cống hiến tuyệt vời
trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một đất nớc trong điều kiện có
chiến tranh, điều cha có tiền lệ trong lịch sử thế giới.
Hai là: bối cảnh đó đã kiểm nghiệm, chứng thực và là cơ sở sống, phát
triển t tởng Hồ Chí Minh.
Nhà t tởng Hồ Chí Minh đã trải qua những năm tháng không mấy
êm ả. Cuộc đời của Hồ Chí Minh đầy khó khăn, thử thách, lắm gian truân.
Hồ Chí Minh là ngời mang đầy tham vọng lớn lao. Tham vọng của
Ngời không phải là nhằm lo lấy cái bản thân mình để đợc ăn ngon, mặc
đẹp, có vợ con đề huề, có quyền cao chức trọng, v.v. Tham vọng của Hồ
Chí Minh, nh Ngời nói một cách nôm na, đó là sự ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao cho nớc ta đợc hoàn toàn độc lập, dân ta đợc
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đợc học
hành. Trong Tài liệu Tuyệt đối bí mật (Di chúc), Ngời còn nêu điều
mong muốn cuối cùng là Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nớc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới1. Cả cuộc
đời Hồ Chí Minh dấn thân vào cuộc trờng chinh giải phóng dân tộc, giải
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 500.
54