Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 527 trang )
Lý luận là hệ thống t tởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức, sự
tổng hợp các tri thức đã đợc tích luỹ trong quá trình lịch sử, kinh nghiệm của
nhân loại đã đợc khái quát thành những nguyên lý.
Vấn đề cơ bản của lý luận là nó phải đợc gắn liền với thực tiễn, mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn là không thể tách rời. Lý luận và thực tiễn bổ
sung cho nhau và làm phong phú lẫn nhau. Lý luận thoát ly thực tiễn là lý luận
suông. Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mất phơng hớng. Trong mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, lý luận có tác dụng quan trọng, còn thực tiễn
đóng vai trò quyết định. Thực tiễn không những là nền tảng và nguồn gốc của
sự phát triển lý luận, mà còn là tiêu chuẩn tốt nhất để kiểm tra lý luận, khoa
học và nhận thức nói chung. Hồ Chí Minh nói: "Lý luận cốt để áp dụng vào
công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông"1.
Lý luận là khoa học, nên nó phải đợc đối xử nh một khoa học, nh
Ph. ăngghen đã nói. Khoa học vừa là khả năng, vừa là hiện thực, là tổng kết sự
phát triển lâu dài của tri thức. Mục đích của khoa học là phát hiện ra những
quy luật khách quan của các hiện tợng và giải thích những hiện tợng đó.
"Nó là kẻ thù của ngẫu nhiên" (C. Mác). Nhiệm vụ của khoa học là thông qua
vô vàn những hiện tợng ngẫu nhiên và lộn xộn mà nghiên cứu, phát hiện
những quy luật khách quan. Sức mạnh của khoa học thể hiện ở tính khái quát,
tính tổng kết. Khoa học xuất hiện và phát triển từ thực tiễn, nếu nghiên cứu
thành công, nó sẽ làm phong phú thực tiễn và làm giàu cuộc sống. Với Việt
Nam, nó sẽ góp phần làm sáng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đờng đi
lên chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
và trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Vấn đề sáng tạo lý luận đã đợc C. Mác và Ph. ăngghen đặt ra với quan
điểm hết sức khoa học và mang tính "mở". Các ông tự cho rằng: "học thuyết
của chúng tôi (C. Mác và Ph. ăngghen - TG) không phải là giáo điều, mà là
kim chỉ nam cho hành động". Sau khi Quốc tế Cộng sản tự giải tán năm 1943,
một vấn đề đặt ra cho các đảng cộng sản, đảng công nhân, đảng lao động,
đảng nhân dân cách mạng là phải tự hoạch định lấy đờng lối của mình mang
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 234.
247
tính độc lập, tính đặc thù của dân tộc mình, thoát ly sự phụ thuộc vào một
đờng lối chung nhất, chính vì vậy mà một vấn đề đặt ra là phải có sáng tạo lý
luận, cụ thể là sáng tạo đờng lối trên cơ sở lý luận Mác-Lênin. Riêng đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam (đến tháng 10-1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản
Đông Dơng) ngay từ khi ra đời, mặc dù đặt dới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản, nhng với lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, đã có rất nhiều sáng tạo về lý luận
cách mạng ở một nớc dân tộc thuộc địa.
Qua kinh nghiệm thực tế, tổng quát về sáng tạo lý luận đợc thể hiện
nh sau:
Một là: Sáng tạo lý luận nhằm làm phong phú lý luận Mác - Lênin, vận
dụng lý luận Mác - Lênin, biến lý luận Mác - Lênin thành đờng lối, chính
sách của Đảng và Nhà nớc.
Hai là: Sáng tạo lý luận là lấy cái không thay đổi (nguyên lý cơ bản)
để đối phó với muôn sự thay đổi của tình hình (đờng lối, chính sách của từng
giai đoạn cách mạng khác nhau của mỗi nớc).
Ba là: Sáng tạo lý luận là tổng kết thực tiễn về quá trình vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi đảng, mỗi nớc, phù hợp với
đặc điểm của mỗi đảng, mỗi nớc mà đề ra đờng lối phù hợp nhằm đa nớc
mình thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một nớc giàu mạnh, tự do, dân
chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Bốn là: Sáng tạo lý luận phải bảo vệ và phát triển hệ t tởng xã hội chủ
nghĩa. Lý luận ở đây không phải là lý luận viển vông xa vời, hoặc lý luận t
sản, mà là lý luận gắn liền với hệ t tởng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ đặt vấn đề
này cho rõ ràng, vì hiện nay ở phơng Tây đang dấy lên thuyết giải thể hệ t
tởng.
Nguồn gốc của thuyết này là do một nhà xã hội học Mỹ Benlơ nêu lần
đầu. Ông cho rằng, hệ t tởng là những t tởng đợc biến thành đòn bẩy xã
hội dùng để điều khiển d luận xã hội theo hớng cần thiết. Điều đó có nghĩa
là hệ t tởng không quan tâm đến những nguyên tắc hay luận điểm của nó là
thực hay giả.
248
Theo Benlơ, nếu nh ở các nớc xã hội chủ nghĩa, hệ t tởng của chủ
nghĩa Mác giữ địa vị thống trị, thì ở các nớc phơng Tây dờng nh không có
hệ t tởng nào giữ địa vị thống trị, mà chỉ có ngành khoa học xã hội thuần tuý
chuyên môn nh xã hội học, chính trị học, triết học, luật học để giải quyết
những vấn đề chung nhất và không ngả về một xu hớng nào. Benlơ và những
ngời chủ trơng thuyết "giải thể hệ t tởng" khẳng định rằng, chính ngành
khoa học xã hội thuần tuý chuyên môn này là phù hợp với thời đại tiến bộ
khoa học và công nghệ và của sự hợp lý hoá ngày càng cao mọi mặt của đời
sống xã hội loài ngời. Ông cho rằng, thời đại này không còn chỗ đứng cho
bất kỳ một hệ t tởng nào. Benlơ nhận định rằng, hệ t tởng xã hội chủ
nghĩa (cộng sản chủ nghĩa) chẳng qua là tàn d của những thế kỷ trớc, thời
đại đó đem lại sự tận cùng của hệ t tởng và nó đã qua đi cùng với thời gian.
Vì vậy, Benlơ khuyên giới trí thức nên đi tìm một hệ t tởng mới, phù hợp với
thời đại mới.
Theo Benlơ, thì hệ t tởng mới đó là "hệ t tởng tự do, dân chủ".
Benlơ cho rằng, hệ t tởng này là những khát vọng chung của con ngời, nó
đứng ngoài các giai cấp, đảng phái. Thực chất, thuyết "giải thể hệ t tởng"
của Benlơ là phủ nhận hệ t tởng Mác-Lênin. Vì vậy, nó đã đợc những
ngời cực đoan ở phơng Tây ca ngợi. Tuy nhiên, không phải tất cả giới
nghiên cứu ở phơng Tây đều đồng tình và ủng hộ. Thí dụ: Ghilát, một nhân
vật chống cộng khét tiếng một thời đã gọi luận điểm về sự không tránh khỏi bị
diệt vong của hệ t tởng mácxít-lêninnít do chính bản thân mình đa ra trớc
đó là không có căn cứ, là "một ảo t tởng vĩ đại nhất" của ông.
Bên cạnh thuyết "giải thể hệ t tởng" của Benlơ, gần đây, ở phơng
Tây lại xuất hiện một trờng phái mới gọi là "tái lập hệ t tởng". Sự tái lập
này cũng nhằm phủ nhận lý luận Mác-Lênin, đối lập với lý luận Mác-Lênin,
thay vào đó là một hệ t tởng có tính chất chung nhất, bao trùm lên tất cả mà
nhân loại cần áp dụng (nhốt chung hệ t tởng t sản và hệ t tởng xã hội chủ
nghĩa vào một rọ). Một tạp chí xuất bản ở Mỹ tên là "Phoóctsun" đã viết bài
kêu gọi hãy lập ra một hệ t tởng mà thiếu nó, thì hoạt động của các công ty
không thể thành đạt đợc, gọi đó là "hệ t tởng kinh doanh".
249
Mặc dù Benlơ và những trờng phái triết học đa ra những luận điểm
mang tính chất phủ nhận lý luận Mác-Lênin, nhng đứng về t tởng chính trị,
chúng ta nên trở lại với những luận điểm của V.I. Lênin, khi ông cho rằng, chỉ
có hệ t tởng t bản chủ nghĩa và hệ t tởng xã hội chủ nghĩa, không có hệ
t tởng thứ ba. Với nhận định này, V.I. Lênin đã gắn hệ t tởng vào giai cấp
trong lúc cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay vẫn cha chấm dứt trên thế giới.
Năm là: Sáng tạo lý luận cần mang tính phê phán những quan điểm sai
trái, thù địch với chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng
thời, phê phán những t tởng bảo thủ, kh kh ôm lấy lý luận Mác-Lênin một
cách máy móc, giáo điều, không hề có sáng tạo; không xét đến hoàn cảnh đã
thay đổi. Khi hoàn cảnh đã thay đổi, thì phơng pháp vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin nhất định phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh; có thể xem đó
nh một quy luật vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin. C. Mác và Ph. ăngghen vẫn
thờng nói học thuyết của các ông không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam
cho hành động.
Sáu là: Về mặt phơng pháp, phải có quan điểm nhận thức rõ ràng là
sáng tạo lý luận nhằm phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, làm phong phú chủ
nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới, chứ không phải thay đổi học thuyết MácLênin bằng một học thuyết khác; hoặc nếu có thay đổi bằng một học thuyết
khác, cũng phải trong dòng chảy của biển cả học thuyết Mác-Lênin để tạo ra
những con sông, con suối nối liền với dòng chảy của biển cả Mác-Lênin.
Trong quá trình sáng tạo lý luận, cũng có thể nêu những vấn đề không
có trong kho tàng lý luận Mác-Lênin, nhng phải dựa trên ý định tốt đẹp là sự
sáng tạo đó không hề trái ngợc với chủ nghĩa Mác-Lênin, mà thuận chiều với
chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng cơ bản là mỗi đảng, mỗi dân tộc phải tự
giải quyết lấy vận mệnh của mình, xây dựng đất nớc của mình phồn vinh,
giàu mạnh, nhân dân đợc sống trong ấm no, tự do, hạnh phúc, theo con đờng
của chủ nghĩa xã hội.
Nhìn lại quá trình phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chúng ta thấy rõ một điều là giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1935, Đảng có
phần thiên về vấn đề đấu tranh giai cấp thuần tuý, trong khi đó đã không tính
250
đến ở Việt Nam giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động chiếm
90% dân số của cả nớc. Đứng trớc tình hình mang tính tả khuynh về chủ
trơng, đờng lối, bắt đầu từ năm 1936, chủ trơng, đờng lối của Đảng bắt
đầu có sự điều chỉnh sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam
hơn. Mặt trận dân chủ Đông Dơng xuất hiện vào năm 1936 đã đánh dấu cái
mốc của sự điều chỉnh đờng lối của Đảng. Trong các văn kiện Đảng thời kỳ
này đã nói nhiều đến giai cấp nông dân, một lực lợng cách mạng hùng hậu
bên cạnh giai cấp công nhân. Động lực của cách mạng lúc này đợc xác định
là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đến Hội nghị Trung ơng Đảng tháng 11-1939, đặc biệt là Hội nghị
Trung ơng Đảng tháng 5-1941, dới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc thay mặt
Quốc tế Cộng sản, mà sử sách vẫn gọi là Hội nghị Trung ơng 8, đánh dấu cái
mốc chuyển từ đấu tranh giai cấp thuần tuý sang đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nghị quyết của Hội nghị đặt vấn đề một cách rõ ràng là vấn đề giai cấp nằm
trong vấn đề dân tộc. Khi dân tộc cha đợc giải phóng, thì giai cấp cũng cha
thể đợc giải phóng. Tất nhiên, trong cuộc đấu tranh này cũng không thể gọi là
dân tộc thuần tuý, mà phải có sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh
giải phóng dân tộc. Thuật ngữ "t sản dân quyền cách mạng" đặt ra từ thời kỳ
thành lập Đảng đã đợc chuyển sang cái tên mới: "cách mạng giải phóng dân
tộc". Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng dân tộc dân
chủ1. Đa vấn đề dân tộc lên trên hết, trớc hết, trong khi đó lại không hề hạ
thấp vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, vấn đề mà lý luận MácLênin đã khẳng định là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là một sáng tạo lớn của
Đảng ta trong thời kỳ này. Nh vậy, một khi hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, thì
chủ trơng, đờng lối của Đảng cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình
đã thay đổi.
II. về xác định phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
1
Từ năm 1947, gọi là "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân".
251
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu trong nớc thì hiện nay trong
giới lãnh đạo và giới lý luận tồn tại ba kiểu nhận thức khác nhau: một kiểu
nhận thức lý luận "hai chân tụt lại đàng sau" (giáo điều, bảo thủ); một kiểu
nhận thức lý luận "một chân tụt lại đàng sau, một chân bớc lên đợc phía
trớc" (vừa giáo điều, bảo thủ, vừa có tiến bộ); một kiểu nhận thức lý luận "hai
chân đều bớc lên phía trớc" (hoàn toàn tiến bộ). Giới nghiên cứu lý luận cho
rằng, "một chân tụt lại đàng sau, một chân bớc lên đợc phía trớc" là kiểu
nhận thức "dung hoà", dễ đợc chấp nhận hơn cả. Nhng cũng có ý kiến cho
rằng, kiểu nhận thức dung hoà này thực chất là một dạng cơ hội chủ nghĩa.
Vậy, tiêu chí để xác định phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong tình hình hiện nay nh thế nào là đúng? Trớc hết, phải nhận thức rằng,
phát triển sáng tạo là phát triển trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, chứ không
phải phát triển trên nền tảng một thứ lý luận khác với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đây là vấn đề đợc xem nh có tính nguyên tắc. Thí dụ: Lý luận Mác-Lênin
không nói đến kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, nhng lý luận
Mác-Lênin đã nói đến kinh tế hàng hoá, thị trờng và đã nhiều lần nói đến
phát triển kinh tế trong chủ nghĩa xã hội. Đối với phát triển kinh tế trong chủ
nghĩa xã hội, các ông đã đa ra hàng loạt vấn đề nh chế độ sở hữu về t liệu
sản xuất, vấn đề phân phối, tiền lơng, ngày lao động, bảo hiểm lao động
Các ông xem chế độ sở hữu công cộng giữ địa vị thống trị. Công việc còn lại
của chúng ta là phát triển sáng tạo bên cạnh chế độ sở hữu công cộng là chế độ
sở hữu t nhân về t liệu sản xuất.
Lý luận Mác-Lênin không nói đến nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhng các ông đã để lại những công trình nghiên cứu rất đồ sộ về nhà
nớc xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đầu tiên mà C. Mác và Ph. ăngghen xây
dựng là nhà nớc chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ của nhà nớc chuyên chính
vô sản là thủ tiêu chế độ ngời bóc lột ngời và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
V.I. Lênin kêu gọi những ngời cộng sản phải bảo vệ chủ nghĩa Mác về nhà
nớc. Ông tán thành quan điểm của C. Mác và Ph. ăngghen về tính giai cấp
trong xây dựng nhà nớc chuyên chính vô sản, xem đó là luận điểm quan
252