1. Trang chủ >
  2. Lý luận chính trị >
  3. Tư tưởng Hồ Chí Minh >

Chương 6 : Quá trỉnh phát triển, đặc điểm , ý nghĩa của phương pháp luận Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 527 trang )


Ngoài ra, theo chúng tôi, hoạt động thực hành của Hồ Chí Minh chính

là con đờng cụ thể, trực tiếp và tổng hợp của các nguồn gốc. Thông qua

hoạt động thực hành, Hồ Chí Minh tiếp xúc, tiếp thu, thâu thái, phát triển,

phát huy các cơ sở t tởng, văn hóa để hình thành, phát triển phơng pháp

luận của mình trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam.

Một là, giá trị phơng pháp luận của truyền thống văn hóa Việt Nam.

Truyền thống văn hóa Việt Nam là một hệ những giá trị, phơng pháp

có tính bền vững, đợc hình thành, chắt lọc trong hàng nghìn năm lịch sử

dựng nớc, đặc biệt trong sự nghiệp giữ nớc, nhằm bảo vệ nền độc lập dân

tộc, chống mọi áp lực đồng hóa văn hóa, để bảo tồn, phát triển nền văn hiến

Việt Nam. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam nổi bật là các giá trị: nếp

sống khoan hòa, thiên về hành động với t duy trực giác tổng hợp; lòng

nhân ái (thơng nòi), lối ứng xử linh hoạt, ý chí và nghị lực yêu nớc, tự

lập, tự cờng, đoàn kết đồng bào, dân tộc, v.v. Tất cả các giá trị này tạo nên

chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam.

Chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam, sở dĩ có tính nồng nàn, thiết tha, và bất

khuất là do đợc hun đúc bởi nếp sống khoan hòa, lòng nhân ái (thơng

nòi), lối ứng xử cân bằng linh hoạt, tinh thần, nghị lực yêu nớc, tự lập, tự

cờng đoàn kết đồng bào và dân tộc, đặc biệt trong sự nghiệp giữ nớc,

trớc nạn ngoại xâm và nạn đồng hóa văn hóa. Tinh thần yêu nớc hay tinh

thần dân tộc không phải là một giá trị độc lập, mà thẩm thấu vào các giá trị

trên đây. Chủ nghĩa yêu nớc là tổng hợp của các giá trị đó.

Các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam đợc hình thành, hun đúc

từ lối (phơng pháp) sống đặc trng của dân tộc gốc nông nghiệp điển hình

á Đông - Đông Nam á, nằm giữa hai nền văn hóa lớn là Trung Quốc và ấn

Độ. Thông qua những giá trị văn hóa nổi bật đó có thể nhận biết đợc nếp,

lối, cách thức (phơng pháp luận) hoạt động của ngời Việt Nam truyền

thống.

Nếp sống khoan hòa thiên về hành động với t duy trực giác tổng hợp.

Con ngời Việt Nam có truyền thống khoan dung, bao dung, tính

kiêm nhờng, tôn trọng, bình đẳng, hòa hợp với thiên nhiên, hòa đồng với

con ngời và hòa mục, hòa hiếu với lân bang. Nghề trồng lúa nớc buộc

con ngời phải sống phụ thuộc, giao hòa với đất, với nớc theo thời tiết

160



thiên nhiên. Văn hóa lúa nớc với tính cách là văn hóa điển hình của văn

hóa sản xuất vật chất ở Việt Nam, đã cơ bản tạo dựng văn hóa làng Việt

Nam. Phức hợp văn hóa lúa nớc - văn hóa làng đã đợc định hình trong

lịch sử, thông qua thế quân bình năng động đối với tự nhiên, đặc biệt trong

các dịp thiên tai. Từ chỗ ứng xử chênh với tự nhiên đi đến ứng xử hòa điệu

với tự nhiên ở miền đất thấp, miền đồng bằng châu thổ, theo khí hậu, theo

nhịp mùa đi, theo địa hình cao thấp, theo điều kiện đất đai thổ nhỡng phì

nhiêu hay chua mặn... Trong sản xuất nông nghiệp, trong cách ăn, ở, mặc...

ngời Việt Nam đều thể hiện sự thích nghi, hòa hợp với tự nhiên1.

Học tập, tôn trọng, chính phục, mô phỏng, thích nghi là những cách

thức ứng xử theo hớng khoan hòa với tự nhiên. Từ đó hình thành nên nếp

sống khoan hòa, thuần hậu không chỉ với tự nhiên, mà với xã hội, với bản

thân. Nếp sống khoan hòa đợc thể hiện, thực hiện từ cách sống hòa thuận

trong gia đình, láng giềng,... đến hòa hiếu với lân bang. Chính nếp sống này

đã thúc đẩy hình thành lối hay phơng pháp t duy trực giác tổng hợp cảm

tính và kinh nghiệm. Tổng hợp gắn với trừu tợng hóa và t duy biện chứng

chất phác. Nếp sống đó không quan tâm nhiều đến các yếu tố riêng rẽ, nh

nớc, phân, cần, giống mà quan tâm đến những mối quan hệ giữa chúng.

Trừu tợng hóa để đi thẳng vào cái trọng tâm, trọng điểm, cái bức xúc; t

duy biện chứng, nhằm vào tính vận động của các mối quan hệ. Tất nhiên

trong triết lý sống của ngời Việt Nam cho đến nay, năng lực trừu tợng

hóa và t duy biện chứng cơ bản mới dừng ở mức cảm tính, kinh nghiệm;

song dẫu sao, năng lực đó đã khiến nếp sống khoan hòa có tính triết lý. Và

do đó, nó có lề lối, phép tắc nhất định. Nếp sống khoan hòa, thiên về hành

động với lối t duy trực giác, tổng hợp có nhân tố biện chứng là một giá trị

truyền thống rất cơ bản hình thành phơng pháp luận Hồ Chí Minh.

Lòng nhân ái Việt Nam.

Lòng nhân ái Việt Nam đợc thể hiện và thực hiện theo các nguyên tắc

trọng tình, trọng đức, trọng văn và trọng nữ. Nếp sống khoan hòa trong làng

với tính cách là một cộng đồng xã hội tuy đã có lệ làng (văn hóa pháp lý),

nâng lên thành nguyên tắc trọng đức, trọng văn, và mở rộng ra thành



1



Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn: Bàn về khoan dung trong văn hóa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tái bản có sửa chữa, bổ sung, tr. 205-208.



161



nguyên tắc trọng phụ nữ.

Nguyên tắc trọng đức ở Việt Nam hớng vào những giá trị nền tảng có

tính bền vững của đức là luân lý. Và vì thế, nó dễ dàng tiếp thu đạo ngũ

thờng, luân thờng của Nho giáo Trung Quốc. Tình nghĩa trong quan hệ

ngời - ngời, và lối ứng xử tình nghĩa trong dân gian, đợc Nguyễn Trãi,

theo nguyên tắc trọng văn, nâng lên thành lối ứng xử nhân nghĩa, để tình

ngời hòa với đạo trời, hay tình ngời hòa với phép tắc chung của xã hội.

Song sở dĩ nhân nghĩa Việt Nam vẫn có bản sắc riêng bền vững, vì nó

gắn với nguyên tắc trọng phụ nữ. Nguyên tắc này đợc thể hiện, thực hiện

nhất quán từ gia đình đến tín ngỡng mẫu hệ và cả Bộ luật Hồng Đức dới

triều Lê.

Nếp sống khoan hòa thiên về hành động, với lối t duy trực giác tổng

hợp có tính biện chứng đợc thể hiện trong tình nghĩa đối với con ngời

theo các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng nghĩa bằng triết lý nhân

nghĩa. Nó đã thúc đẩy hình thành lối ứng xử nhân văn, tập thể và dân chủ.

Đây cũng là những giá trị truyền thống cơ bản góp phần hình thành phơng

pháp luận Hồ Chí Minh.

Lối ứng xử cân bằng linh hoạt.

Nếp sống khoan hòa thiên về hành động, chú trọng đến mối quan hệ

đang vận động, nhất là những cái trọng tâm, trọng điểm, bức xúc, nên cũng

dễ dẫn đến cách ứng xử, hành động linh hoạt, thậm chí biến báo cho thích

hợp với từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Do đó, nếp sống khoan hòa thờng

đợc biểu hiện ở lối ứng xử quân bình, nhng cũng thờng biến thái ở dạng

tùy tiện, mềm dẻo.

Thói tùy tiện với tính cách là biểu hiện tiêu cực của lối ứng xử linh

hoạt; còn tính mềm dẻo, nhìn chung là biểu hiện tích cực của nó. Song cả

hai biểu hiện linh hoạt đó nhìn chung đều diễn ra trong khuôn khổ lối ứng

xử bình quân không thái quá. Chúng là điểm nhấn của lối ứng xử quân bình

linh hoạt, theo cả hai chiều tiêu cực, tích cực. Chúng đều là kết quả của lối

t duy trực giác tổng hợp có tính biện chứng. Chúng dẫn đến các tiếp nhận,

thâu thái theo kiểu dung hợp và cả tổng hợp theo hớng tích hợp. Thí dụ ở

Việt Nam có sự dung hợp nhiều tôn giáo ngoại lai và bản địa; trong đó Nho,

Phật, Lão đạt đến mức tích hợp đồng nguyên. Trớc áp lực của hai nền văn

162



hóa lớn: văn hóa ấn Độ thiên về tâm linh, văn hóa Trung Quốc thiên về

thực tế - thực dụng, cho nên, để tồn tại và phát triển đợc, nền văn hóa Việt

Nam đã phát huy lối sống khoan hòa dựa trên cơ tầng văn hóa Đông Nam

á. Việt Nam đã lựa chọn lối ứng xử cân bằng linh hoạt, để không bị đồng

hóa về văn hóa. Lối ứng xử cân bằng, linh hoạt và lối t duy trực giác tổng

hợp có tính biện chứng đợc Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc, để tạo nên

phơng pháp luận của Ngời.

ý chí, nghị lực yêu nớc, tự lập, tự cờng, đoàn kết đồng bào, dân tộc.

Nhiều nhà nghiên cứu thờng có xu hớng nhấn mạnh một chiều, có

phần thái quá về sự khép kín của làng (xã) tiểu nông. Song nếu chỉ nhìn

thấy tính tự cấp tự túc về kinh tế, sự đóng kín về văn hóa, sự vây bọc đơn vị

tụ c bởi lũy tre làng, v.v. thì rất khó giải thích đợc vì sao ngời nông dân

Việt Nam lại có ý thức, hành động yêu nớc mãnh liệt, trờng kỳ nh vậy?

Những ý niệm làng - nớc, đồng bào, quốc gia, v.v. giải thích cho việc hơn

60 huyện, thành đồng thanh tơng ứng khi Hai Bà Trng phất cờ nơng

tử; và khi Bà Triệu cỡi voi dóng trống thì toàn thể Giao Châu chấn

động1. ý chí, nghị lực giao lu, đoàn kết đồng bào dân tộc của các làng

tiểu nông xuất phát từ sự liên kết giữa các làng, các vùng trong việc trị thủy,

chống thiên tai, chống ngoại xâm.

Nói một cách công bằng, đặc điểm cơ bản của văn hóa làng Việt Nam

là tính lỡng diện giữa khuynh hớng cá thể, biệt lập với khuynh hớng

giao lu, đoàn kết đồng bào, dân tộc. Khi mà kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc

còn chi phối thì khuynh hớng cá thể, biệt lập, khép kín chiếm địa vị chủ

đạo, còn khuynh hớng đoàn kết đồng bào, dân tộc trở thành phụ và thứ

yếu. Nhng cái khuynh hớng phụ, thứ yếu này có lúc, có nơi sẽ trở thành

chủ đạo khi phải hiệp tác chống thiên tai, trị thủy, chống ngoại xâm và nạn

đồng hóa văn hóa. ở Hồ Chí Minh, ý chí, nghị lực yêu nớc, tự lập, tự

cờng, đoàn kết đồng bào, dân tộc là một điểm chủ đạo tạo nên phơng

pháp luận của Ngời.

Còn có thể kể thêm một số giá trị khác trong giá trị truyền thống văn

hóa Việt Nam, góp phần hình thành, định hình, phát triển phơng pháp luận

1



Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn: Chấn hng các vùng và tiểu vùng văn hóa ở

nớc ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 14-15.



163



Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nớc trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh

chính là sự tổng hợp - tích hợp của các giá trị văn hóa truyền thống. Nó là

cái bất biến để tiếp xúc, thâu thái, tổng hợp - tích hợp cái vạn biến của

văn hóa Đông, Tây trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh.

Hai là, giá trị phơng pháp luận của văn hóa phơng Đông, phơng

Tây.

Khái niệm phơng Đông và phơng Tây đợc manh nha vào khoảng

thế kỷ thứ IV trớc công nguyên trong cuộc chinh phạt của vị hoàng đế Hy

Lạp cổ đại Alêcxanđơ Đại đế (356-323 tr.CN). Qua bao thăng trầm của lịch

sử giữa phơng Đông và phơng Tây, đã có rất nhiều hình thức giao lu văn

hóa (cỡng bức, tự nguyện, tơng tác). Mặc dù ngày nay đã có những xu

hớng toàn cầu hóa văn hóa, nhng giữa phơng Đông và phơng Tây vẫn

có những khác biệt về văn hóa.

Về mặt địa lý - văn hóa thì ngày nay quan niệm về phơng Tây gồm

châu Âu, châu Mỹ và cả châu Đại Dơng, trong đó văn hóa Ănglô Xăcxông (Tây Âu) đóng vai trò truyền dẫn cơ bản. Cơ sở triết học, khoa

học, văn hóa tại những châu lục này khởi nguồn từ: a) Di sản văn hóa Hy

Lạp - La Mã; b) Niềm tin Do thái giáo, Thiên chúa giáo vào một đấng sáng

thế đã tạo dựng nên thế giới mới; c) Chủ nghĩa duy lý và khoa học, nhất là

khoa học thực nghiệm; d) Chủ nghĩa cá nhân và quan niệm coi con ngời là

trung tâm thế giới.

Trên cơ tầng văn hóa đó, đặc điểm văn hóa phơng Tây, về đại thể,

gồm1:

- Cái Một (cái đơn nhất), cái thống nhất đợc biểu hiện trong cái đa

dạng và thông qua cái đa dạng.

- Niềm tin đợc dẫn dắt bởi Kitô giáo (Thiên chúa giáo, Chính thống

giáo, đạo Tin lành).

- Coi trọng cái cá nhân, chủ nghĩa nhân văn - cá nhân.

- Coi trọng lý tính, thực nghiệm khoa học để hớng đến sự tổng hợp lý

1



Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn: Bàn về khoan dung trong văn hóa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tái bản có sửa chữa, bổ sung, tr. 74-140.



164



tính.

- v.v.

Trong khi đó, về mặt địa lý - văn hóa, thì khái niệm phơng Đông bao

gồm châu á và cả châu Phi. Cơ sở triết học, khoa học, văn hóa của phơng

Đông khởi nguồn từ: a) Nhiều nền văn hóa lớn (Trung Quốc, ấn Độ, Lỡng

Hà, Ai Cập, ả rập, châu Phi); b) Sự lồng ghép triết lý với tôn giáo (đạo

Phật, Nho giáo...); c) Chủ nghĩa duy linh, duy tình, duy cảm với t duy trực

giác tổng hợp; d) Chủ nghĩa cộng đồng và quan niệm Thiên - Địa - Nhân

hợp nhất.

Trên cơ tầng văn hóa đó, đặc điểm văn hóa phơng Đông, về đại thể

gồm :

1



- Cái đa dạng đợc biểu hiện trong cái Một, cái thống nhất và thông

qua cái Một, cái thống nhất.

- Niềm tin về bổn phận làm ngời.

- Coi trọng cộng đồng, chủ nghĩa nhân văn - cộng đồng.

- Coi trọng tâm linh, tâm hồn, tình cảm.

- v.v..

Trong quá trình hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, thâu

thái và tổng hợp nhiều yếu tố văn hóa của phơng Đông và phơng Tây.

Ngời đã bày tỏ thái độ đối với học thuyết của Khổng Tử, chủ nghĩa Tôn

Dật Tiên, tôn giáo Giêxu và chủ nghĩa Mác. Nhng đối với Ngời, tinh hoa

văn hóa Đông - Tây đều đợc tiếp xúc, thâu thái, tổng hợp - tích hợp theo

quan điểm triết học riêng trên lập trờng duy vật biện chứng, nhằm bảo

đảm thực hiện đợc mục tiêu hoạt động của Ngời. Nói cách khác, Hồ Chí

Minh tiếp biến tinh hoa văn hóa Đông - Tây trên cơ sở quan điểm triết học,

mục tiêu hoạt động và lập trờng duy vật biện chứng. Và động cơ thúc đẩy

hình thành quan điểm triết học, mục tiêu hoạt động và lập trờng duy vật

biện chứng ở Ngời trớc hết và cơ bản là chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam

với một hệ giá trị văn hóa đã đợc chọn lọc, bảo tồn, phát triển và phát huy

Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn: Bàn về khoan dung trong văn hóa, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tái bản có sửa chữa, bổ sung, tr. 141-196.



1



165



trong lịch sử.

Quan điểm triết học của Hồ Chí Minh, chẳng hạn, trong cách đánh giá

về một số học thuyết và tôn giáo, là xuất phát và hớng đến mục tiêu: hạnh

phúc của loài ngời, phúc lợi của xã hội; từ t duy tổng hợp đó, Ngời chú

ý đến mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố: tu dỡng đạo đức cá nhân,

lòng nhân ái, phơng pháp làm việc biện chứng và chính sách thực hiện phù

hợp với điều kiện nớc ta (chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, chủ nghĩa Lênin). Cách

lựa chọn các nhân tố này phản ánh t duy của Ngời xuất phát từ cái bất

biến hay ít biến đổi (đạo đức, lòng nhân ái hay con ngời nói chung); và

quan trọng hơn đối với một ngời theo chủ nghĩa Mác sáng tạo nh Hồ Chí

Minh, là phải chú ý đến phơng pháp và chính sách đúng và phù hợp với

điều kiện lịch sử, để bảo đảm thực hiện đợc mối quan hệ thống nhất biện

chứng giữa cơ sở xuất phát và mục tiêu hoạt động là: hạnh phúc của loài

ngời, phúc lợi của xã hội.

Chính quan điểm triết học biện chứng đó là cơ sở phơng pháp luận

định hớng cho thứ tự u tiên trong việc tiếp xúc, thâu thái, tổng hợp - tích

hợp tinh hoa văn hóa Đông - Tây. Hồ Chí Minh không giành thứ tự u tiên

trong việc tiếp biến tinh hoa văn hóa thế giới theo lối t duy trực giác cảm

tính: phơng Đông rồi đến phơng Tây, hay ngợc lại.

Một quan điểm triết học nh vậy, dĩ nhiên, phải đợc xây dựng trên cơ

sở lập trờng duy vật biện chứng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ lập trờng duy vật

biện chứng, ví dụ trong việc tiếp biến giá trị Nho giáo: Đạo đức cũ và đạo

đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ nh ngời đầu ngợc xuống đất chân

chổng lên trời. Đạo đức mới nh ngời hai chân đứng vững đợc dới đất

đầu ngửng lên trời1.

Trên cơ sở quan điểm triết học, mục tiêu hoạt động và lập trờng duy

vật biện chứng, xuất phát từ chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam, nhất là giá trị

lòng nhân ái với các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ,

Hồ Chí Minh đã tiếp thu một số giá trị tu dỡng đạo đức cá nhân trong học

thuyết Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung. Chẳng hạn Ngời đặt

vấn đề trớc tiên phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, trên cơ sở đó xây dựng

đạo đức cách mạng; hay muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trớc hết phải

1



Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T6, tr. 320-321.



166



có con ngời xã hội chủ nghĩa và vì lợi ích trăm năm phải trồng ngời.

Đối với Hồ Chí Minh, tu dỡng đạo đức cá nhân là sự kế thừa, phát huy

truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp biến cả giá trị Nho giáo Trung Hoa.

Với tính cách là gốc của đạo làm ngời, đạo đức Hồ Chí Minh quan tâm

xây dựng chủ yếu ở những giá trị nền tảng của nó là luân lý, nh trung hiếu, tình nghĩa, nhân nghĩa, tứ hải giai huynh đệ, dân vi quy, xã

tắc thứ chi, quân vi khinh, tôn trọng phụ nữ v.v. Và mọi hoạt động thực

tiễn đều xuất phát và hớng vào mục đích làm ngời. Học tập chủ nghĩa

Mác-Lênin, chẳng hạn, cũng là để sống với nhau có tình, có nghĩa.

Tu dỡng đạo đức cá nhân theo phơng châm nh vậy là không tách

rời lòng nhân ái. Từ lòng nhân ái Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp biến những

giá trị nhân ái ở Kitô giáo và Phật giáo, Lão giáo. Nhng khác với các tôn

giáo muốn tìm kiếm sự cứu rỗi lòng nhân ái ở những lực lợng siêu nhiên

(Kitô giáo) hay ở một phép thiền, một đạo vi vô nào đó (Phật giáo, Lão

giáo), Ngời hớng vào các biện pháp giáo dục con ngời, bởi Hiền dữ

đâu phải là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên.

Từ việc giáo dục con ngời thông qua các thiết chế gia đình, nhà

trờng và xã hội, đặc biệt thông qua lao động sản xuất và các hoạt động xã

hội, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có phơng pháp làm việc biện chứng và có

chính sách phù hợp với điều kiện nớc ta. Đối với Ngời, tất cả những mục

đích nh tu dỡng đạo đức cá nhân, lòng nhân ái hay mục tiêu hạnh phúc

nhân loại, phúc lợi xã hội, đều không thể thực hiện đợc nếu không có

phơng pháp và chính sách phù hợp với điều kiện nớc ta.

Chủ nghĩa Mác đợc Hồ Chí Minh tiếp biến với tính cách là tinh hoa

văn hóa nhân loại, tức là sự tổng hợp văn hóa Đông - Tây. Từ đó Ngời

nhấn mạnh phơng pháp làm việc biện chứng trong chủ nghĩa Mác. Dĩ

nhiên phơng pháp làm việc biện chứng chỉ có thể đợc rút ra từ lý luận,

hay nói một cách toàn diện, là từ thế giới quan duy vật biện chứng.

Chính sách phù hợp với điều kiện nớc ta đợc Hồ Chí Minh tiếp biến

cơ bản gồm có chủ nghĩa Tôn Dật Tiên và trên hết là chủ nghĩa Lênin.

Ngời thực ra đã tiếp xúc với t tởng tự do, bình đẳng, bác ái trong cách

mạng t sản Pháp (1789) và t tởng quyền sống, quyền tự do, quyền mu

cầu hạnh phúc của con ngời, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ



167



trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776). Nhng theo Ngời, do tính

hạn chế lịch sử của các cách mệnh không đến nơi, cho nên, những t

tởng tốt đẹp đó chỉ dừng lại ở khẩu hiệu. Ngời nhận thấy chủ nghĩa Tam

Dân và chính sách thân Nga, liên Cộng, phù trợ công nông của Tôn Trung

Sơn có những nét tiến bộ, phù hợp với quan điểm của Ngời vốn coi chủ

nghĩa Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chín chắn nhất. Ngời cũng nhận

thấy những hạn chế lịch sử trong t tởng dân chủ t sản của Tôn Trung

Sơn. Cho nên, khi Phan Bội Châu có ý định chuyển Việt Nam Quang Phục

hội thành tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng, theo cơng lĩnh của Tôn

Trung Sơn, thì Ngời đã khuyến nghị không nên dừng nhiệm vụ của cách

mạng Việt Nam ở những chủ trơng của Quốc dân đảng1.

Hồ Chí Minh đã tiếp biến và tổng hợp chính sách độc lập, tự do, hạnh

phúc của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn và t tởng tự do, bình

đẳng, bác ái, quyền sống, quyền tự do, quyền mu cầu hạnh phúc của

cách mạng t sản Pháp, Mỹ, đặc biệt tiếp biến t tởng chính quyền công nông của dân, do dân và vì dân dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của

chủ nghĩa Lênin, để xây dựng nền dân chủ, cộng hòa ở Việt Nam. Trong t

tởng cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí

Minh, nhìn chung, đều thể hiện phơng pháp luận tiếp biến một cách tổng

hợp tinh hoa văn hóa Đông - Tây trên lập trờng duy vật biện chứng. Trong

t tởng xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, cũng có thể nhận ra

phơng pháp luận của Hồ Chí Minh, đợc hình thành theo hớng nh vậy;

dĩ nhiên là cha rõ nét nh phơng pháp luận của Ngời về cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân.

Ba là, giá trị phơng pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác

Hồ Chí Minh, một mặt, dùng các phạm trù chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa

Lênin, và chủ nghĩa Mác-Lênin, để chỉ trào lu chân chính nhất, chắc chắn

nhất, cách mạng nhất trong các trào lu t tởng mácxít trên thế giới; đồng

thời để thông qua các phạm trù đó Ngời chỉ ra tính vận động có tính liên

tục, không liên tục của nội dung và phơng pháp tiếp cận đối với các quan

điểm, học thuyết của chủ nghĩa Mác, để không mắc phải bệnh giáo điều



1



Xem Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): T tởng Hồ Chí Minh và con đờng cách mạng

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 58.



168



vốn thờng nảy sinh trong các loại chủ nghĩa, t tởng.

Hồ Chí Minh, mặt khác, luôn luôn tiếp cận và tiếp biến chủ nghĩa Mác

và các giai đoạn phát triển chân chính của nó là chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa

Mác-Lênin, từ quan điểm của chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam, tất nhiên là

trên lập trờng thế giới quan duy vật biện chứng. Nói cách khác, Ngời tiếp

cận và tiếp biến chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác-Lênin từ

quan điểm lịch sử - cụ thể. Và chính nhờ thế, Ngời cũng tiếp cận, tiếp biến

nó trong mối liên hệ với tính hoa văn hóa Đông - Tây; tiếp cận, tiếp biến nó

từ hoạt động thực tiễn của bản thân.

Phơng pháp làm việc biện chứng của chủ nghĩa Mác chính là phép

biện chứng duy vật. Phép biện chứng này là kết quả tổng hợp và là linh hồn

sống của các quan điểm, học thuyết hay gọi chung là lý luận trong chủ

nghĩa Mác. Với tính cách là phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác, phép

biện chứng duy vật sở dĩ đạt tính thực tiễn - khoa học chặt chẽ là do tuân

thủ các nguyên tắc sau:

- Phép biện chứng duy vật xem xét sự vật luôn luôn gắn với sự phát

triển khách quan của thực tế, để điều chỉnh nhận thức chủ quan cho phù hợp

với sự phát triển ấy. Cho nên khái niệm, nguyên lý, quy luật mà nó vận

dụng để phê phán đợc hình thành, bổ sung, phát triển bằng con đờng hoạt

động thực tiễn, trên cơ sở hoạt động thực tiễn, chứ không phải bằng con

đờng suy diễn thuần túy, không phải bằng con đờng phê phán t biện.

Nhờ đế nó đòi hỏi và có khả năng hạn chế bệnh giáo điều chủ quan, duy ý

chí trong t duy và trong hoạt động thực tiễn.

- Do gắn với thực tế khách quan, cho nên phép biện chứng duy vật

luôn luôn xem xét sự vật trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể.

Nghĩa là nó không dừng lại ở việc phản ánh các sự vật bằng những khái

niệm, nguyên lý, quy luật chung, mà phải tính đến những điều kiện thực tế

của sự vận dụng các quy luật đó.

- Do gắn bó với thực tế khách quan, nên phép biện chứng duy vật xem

xét sự vật từ chính bản thân sự vật, từ những thuộc tính vốn có của sự vật.

Nghĩa là nó tôn trọng tính khách quan trong quá trình phản ánh sự vật, chứ

không xuất phát từ ý muốn chủ quan, để đạt đến sự phù hợp giữa t duy với

bản chất sự vật. Nguyên tắc tính khách quan là nguyên tắc quan trọng nhất

169



của phép biện chứng duy vật. Việc ngăn ngừa t duy khỏi những sai lầm do

chủ thể nhận thức đa vào sự vật một số yếu tố chủ quan vốn không có

trong bản thân sự vật, cho phép và đòi hỏi phát huy tính năng động, sáng

tạo của ý thức trong quá trình phản ánh tính khách quan và tiếp cận bản

chất khách quan của sự vật.

- Để đạt đến tính khách quan trong nhận thức và trong việc tiếp cận

bản chất khách quan của sự vật, phép biện chứng duy vật phải nhận thức sự

vật nh một chỉnh thể của tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ

trong bản thân sự vật và giữa sự vật này với sự vật khác, với môi trờng của

sự vật, nhằm phát hiện, phản ánh đợc những mặt chủ yếu, những thuộc

tính bản chất của sự vật. Việc xem xét toàn diện sẽ khắc phục bệnh phiến

diện, một chiều, lối suy diễn giản đơn, để hớng vào khâu then chốt, có khả

năng bao quát toàn bộ quá trình vận động, phát triển của sự vật.

- Việc tiếp cận chỉnh thể khách quan của sự vật thông qua việc nắm

bắt những mặt, những khâu then chốt cho phép phản ánh đợc những mối

quan hệ thống nhất và quan hệ mâu thuẫn của sự vật, sự chuyển hóa của sự

vật, sự xuất hiện cái mới trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.

Việc phát hiện cái mới của sự vật khách quan cũng có nghĩa là có sự bổ

sung, phát triển những khái niệm, nguyên lý, quy luật mới cho phù hợp với

sự vận động, phát triển của bản thân sự vật. Nhờ đó hạn chế bệnh bảo thủ,

trì trệ trong t duy cũng nh trong hoạt động thực tiễn.

Nh vậy, với 5 nguyên tắc (thực tế, lịch sử - cụ thể, khách quan, chỉnh

thể và phát triển) phép biện chứng duy vật có khả năng phản ánh, dự báo sự

vật nói riêng và thế giới khách quan nói chung một cách khoa học. Cụ thể là

các kết luận khoa học của nó đợc hình thành, phát triển trên cơ sở hoạt

động thực tiễn của những con ngời hiện thực. Các kết luận khoa học của

nó đợc hình thành bằng phơng pháp khái quát hóa, trừu tợng hóa và

đợc biểu hiện bằng hình thức các khái niệm, nguyên lý, quy luật. Những

kết luận này theo Lênin, là chủ quan trong tính trừu tợng của chúng, trong

sự tách rời của chúng, nhng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình,

trong toàn bộ, trong khuynh hớng và trong nguồn gốc của chúng. Nội

dung biểu hiện, tiêu chuẩn kiểm tra chân lý, mục đích, chức năng của phép

biện chứng duy vật, đều là khách quan. Chúng là công cụ của con ngời, để

nhận thức, cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn theo

170



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (527 trang)

×