Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 527 trang )
phơng pháp luận của Hồ Chí Minh1. Điểm đặc sắc trong phơng pháp luận
Hồ Chí Minh là không chỉ dừng ở thực tiễn nói chung, mà tập trung vào
thực hành với tính cách là dạng hoạt động thực tiễn có hiểu biết, có lý luận
nhằm vận dụng, phát triển sáng tạo tri thức khoa học (hay lý luận) trong
thực tế đời sống xã hội.
Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về thực tiễn ở chỗ: không đi sâu vào đề cập các vấn đề bản thể
luận, nh: quan điểm triết học duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật
và lý luận phản ánh nói chung về thực tiễn. Ngời tập trung làm sáng tỏ quá
trình thực hành trong chỉnh thể: chủ thể hoạt động thực hành - nội dung
hoạt động thực hành - tấm gơng (cá nhân, tập thể) hoạt động thực hành.
Để có cơ sở nhận thức đúng về thực hành, trớc tiên, Hồ Chí Minh
không tiếp cận một cách giáo điều đối với chủ nghĩa Mác. Ngời cho rằng,
cần bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác, bằng cách đa thêm vào đó
những t liệu mà Mác ở thời mình không thể có đợc, và củng cố nó bằng
dân tộc học phơng Đông2. Đối với Hồ Chí Minh, con đờng và phơng
pháp tiếp cận, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ bản
và trớc hết phải là thực hành. Thực hành nói riêng và thực tiễn nói chung
là tính chất quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngời viết: Do thực
hành mà tìm ra sự thật. Lại do thực hành mà chứng thực sự thật và phát
triển sự thật. Từ hiểu biết bằng cảm giác tiến lên hiểu biết bằng lý trí. Lại từ
hiểu biết bằng lý trí tiến lên thực hành lãnh đạo cách mạng, cải tạo thế
giới3. Ngời quan niệm mối quan hệ giữa thực hành và hiểu biết là mối
quan hệ theo vòng xoáy ốc đi lên, không thể đảo ngợc, với trình độ ngày
càng cao. Thực hành, hiểu biết, lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vòng
nh thế mãi, không bao giờ ngừng. Và nội dung của thực hành và hiểu biết
lần sau cao hơn lần trớc. Đó là nội dung vấn đề hiểu biết trong duy vật
biện chứng.
Đó là quan điểm biết và làm thống nhất của duy vật biện chứng4.
1
Xem Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): T tởng Hồ Chí Minh và con đờng cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 305-317.
2
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.1, tr. 465.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.6, tr. 256-257.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.6, tr. 257.
131
Để hình thành phơng pháp luận sáng tạo, Hồ Chí Minh trớc tiên làm
rõ phạm trù thực hành trong mối liên hệ với lý luận; đồng thời phê phán chủ
nghĩa giáo điều ở bốn phơng diện:
Thứ nhất, chủ nghĩa giáo điều tách rời mối quan hệ giữa chủ quan và
khách quan, giữa lý luận và thực hành, giữa biết và làm. Hồ Chí Minh quan
niệm, chủ quan và khách quan, lý luận và thực hành, biết và làm, là thống
nhất; và đòi hỏi phải chống sai lầm tả khuynh và hữu khuynh, vì nó trái với
điều kiện lịch sử1.
Thứ hai, chủ nghĩa giáo điều tách rời mối quan hệ giữa cái phổ biến và
cái đặc thù, giữa cái chung và cái riêng. Ngời viết: Không chú trọng đến
đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nớc anh
em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhng nếu quá
nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh
nghiệm lớn, cơ bản của các nớc anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng
của chủ nghĩa xét lại2. Sai lầm của chủ nghĩa giáo điều ở chỗ: một mặt,
không hiểu sự cần thiết phải nghiên cứu tính đặc thù, cái riêng, để có cơ sở
nhận thức đợc cái phổ biến, và bản chất chung của sự vật. Mặt khác, chủ
nghĩa giáo điều không hiểu đợc sự cần thiết từ chỗ nắm bắt đợc bản chất
chung còn tiếp tục phải nghiên cứu sự vật cụ thể hoặc những sự vật mới
xuất hiện trong thực tế.
Thứ ba, chủ nghĩa giáo điều tách rời mối quan hệ giữa bộ phận và toàn
thể, giữa hiện tợng và bản chất. Mọi sai lầm của chủ nghĩa giáo điều (và cả
chủ nghĩa xét lại) đều là do cách nhìn sự vật chủ quan, phiến diện và bề
ngoài.
Thứ t, chủ nghĩa giáo điều không hiểu mối quan hệ biện chứng giữa
tính thống nhất với tính đấu tranh, giữa tính thống nhất với tính đối lập. Cụ
thể là chủ nghĩa giáo điều không hiểu trong thống nhất có đấu tranh, trong
đối lập có thống nhất và sự chuyển hóa nhau giữa đối lập với thống nhất
trong mối liên hệ nơng tựa lẫn nhau, để cùng tạo thành sự vận động mâu
thuẫn của mọi sự vật khách quan.
Trên cơ sở phê phán, bác bỏ chủ nghĩa giáo điều, Hồ Chí Minh tiến
1
2
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.6, tr. 255.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, T.8, tr. 499.
132
hành tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam và cũng đồng thời bàn
về thực hành theo phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, thực tiễn đợc hiểu là toàn bộ các hoạt
động xã hội, mà trớc tiên và cơ bản là lao động sản xuất, có đối tợng cảm
tính, có mục đích rõ ràng, có quan hệ tích cực, chủ động của con ngời,
nhằm cải biến hiện thực khách quan. Nhờ hoạt động thực tiễn và thông qua
hoạt động thực tiễn, con ngời có đợc nhận thức về thế giới khách quan,
về quy luật của thế giới khách quan. Nói cách khác, hoạt động thực tiễn là
khâu trung gian của quá trình phản ánh đó. Bởi lẽ, sự phản ánh nh vậy rõ
ràng không thể đơn giản nảy sinh giữa chủ thể và khách thể một cách trực
tiếp, máy móc. Sự phản ánh về thế giới khách quan, về quy luật của thế giới
khách quan đợc thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin tuyệt nhiên không quan niệm thực tiễn
là những hoạt động vật chất thuần túy mà không có chủ đích của con ngời;
cũng không phải là những hoạt động vật chất với sự tham dự thụ động của
tinh thần. Bản chất của thực tiễn, chính là sự tơng tác và chuyển hóa lẫn
nhau giữa cái tinh thần và cái vật chất, giữa tính chủ quan và tính khách
quan trong toàn bộ các hoạt động xã hội có chủ đích của con ngời.
Khác với con ong, thực tiễn của con ngời bao giờ cũng đợc hình
dung ngay từ đầu, tức là đã đợc ý niệm trong t duy con ngời1. Con ngời
tiến hành các hoạt động thực tiễn không đơn thuần dựa vào sự tác động thụ
động của hiện thực khách quan đến các giác quan của nó, mà bản thân con
ngời tác động có chủ đích vào hiện thực đó, để giải thích, cải biến hiện
thực đó. Thực tiễn là hình thức hoạt động đặc thù của con ngời, mà không
một loài động vật cao cấp nào có đợc. Hình thức hoạt động đặc thù này
của con ngời luôn diễn ra trong môi trờng xã hội - lịch sử, văn hóa cụ thể.
C. Mác cho rằng, trong quá trình hoạt động thực tiễn, con ngời tạo ra
một thực tại mới - đó là thế giới văn hóa vật chất, và tinh thần với tính cách
là điều kiện mới cho sự tồn tại, phát triển cũng nh cho sự nhận thức và cải
biến của mình. Đó chính là giới tự nhiên thứ hai, khác về chất so với dạng
vật chất có sẵn của giới tự nhiên thứ nhất. Bởi vì ở đó, tất cả đều đợc con
1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, T. 23, tr.
266-267.
133
ngời hóa - tinh thần hóa. Cùng với sự phát triển của nhân loại, giới tự
nhiên thứ hai ngày càng kỳ vĩ. Tơng ứng và cũng biểu thị cho sự kỳ vĩ đó
là tầm vóc thực tiễn của con ngời cũng ngày càng rộng, càng sâu, đến mức
bản chất hiện thực của con ngời tổng hòa đợc các quan hệ xã hội. Và
đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn1.
Từ những quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn, Hồ Chí
Minh trớc sau đều xác định con ngời là chủ thể của hoạt động thực tiễn.
Với tính cách là một dạng hoạt động thực tiễn, thực hành là hoạt động xã
hội (lao động, thực nghiệp, đấu tranh xã hội...) có hiểu biết, có lý luận,
nhằm vận dụng, phát triển sáng tạo hiểu biết và lý luận trong thực tế cuộc
sống. Đặc trng của thực hành là thông qua hoạt động xã hội vận dụng,
phát triển sáng tạo lý luận (khoa học) vào thực tế cuộc sống. Thông qua các
hoạt động thực hành, hình thành, tồn tại, phát triển các sản phẩm vật chất,
tinh thần mà kết quả chung và cao nhất là hội tụ, thăng hoa ở những con
ngời hiện thực; tiêu biểu là những tấm gơng, những điển hình tiên tiến
(cá nhân, tập thể). Nghĩa là Hồ Chí Minh xem xét thực hành theo chỉnh thể:
chủ thể hoạt động thực hành - nội dung hoạt động thực hành - tấm gơng
hoạt động thực hành. Đây là biểu hiện khái quát phơng pháp luận sáng tạo
của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn.
Một sáng tạo nữa của Hồ Chí Minh là Ngời mở rộng hình thức hoạt
động thực hành gồm cả sinh hoạt thờng nhật. Trong chủ nghĩa Mác-Lênin,
phạm trù thực tiễn đợc thể hiện bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, nh hành
động, hoạt động, ứng xử, kinh nghiệm, v.v. Nhng việc nhấn mạnh sinh
hoạt thờng nhật cũng thuộc nội dung hoạt động thực hành là một nét đặc
sắc trong t tởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, Ngời xác định nội dung thi
đua, ngoài các hoạt động thực hành (t tởng, chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa...), còn gồm cả sinh hoạt thờng nhật. Vì, theo Ngời, thật ra công
việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: từ trớc đến giờ ta vẫn ăn,
vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho
khỏi đau ốm.
Từ phơng pháp luận sáng tạo trên đây, Hồ Chí Minh kiến giải và tự
1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.3, tr.12.
134
mình tiến hành các hoạt động thực hành, để xây dựng, phát triển phơng
pháp luận của Ngời trong thực tế cuộc sống.
2. Thực tế hiện nay và yêu cầu thực hành sáng tạo phơng pháp luận
Hồ Chí Minh
Thực tế hiện nay có đặc điểm mới cơ bản là thông tin, tri thức khoa
học, trong đó có lý luận, đã và đang trở thành dạng t liệu sản xuất đặc biệt.
Đặc điểm này bộc lộ rõ không chỉ tại các nớc công nghiệp phát triển, mà ở
chừng mực nhất định ở cả Việt Nam. Chẳng hạn vai trò của thông tin, tri
thức đợc thể hiện ngày càng cụ thể trong việc phát huy nhân tố con ngời,
kể cả trực tiếp thúc đẩy tăng trởng thu nhập kinh tế quốc dân (một trong
những chỉ số biểu hiện mức tăng trởng là Tổng thu nhập quốc nội, viết tắt
theo tiếng Anh là GDP), nhất là thông qua ngành công nghiệp thông tin và
dịch vụ kinh tế - kỹ thuật v.v.
Đặc điểm mới này đang và sẽ chứng minh tính đúng đắn của phơng
pháp luận Hồ Chí Minh về thực hành đều là các hoạt động xã hội có hiểu
biết, có lý luận theo chủ đích của con ngời, và phải vận dụng, phát triển
sáng tạo thông tin, tri thức lý luận và tri thức khoa học nói chung. Các hoạt
động xã hội có hiểu biết, có lý luận theo chủ đích của con ngời là nguồn
gốc của thông tin, tri thức khoa học hay lý luận. Chẳng hạn, thông tin, tri
thức về giống cây trồng, vật nuôi đợc hình thành, phát triển từ thực hành
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế; hay lý luận về quản lý kinh tế,
xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững đợc
hình thành, phát triển từ hoạt động của các doanh nghiệp, các địa phơng,
các ngành kinh tế - xã hội và cả nớc nói chung. Các hoạt động lao động,
sản xuất kinh doanh, v.v., dù là trong nông nghiệp chăng nữa, ngày nay
cũng đang là nguồn gốc thúc đẩy sự thực hành thông tin, tri thức hiện đại.
Các hoạt động lao động sản xuất, thực nghiệm khoa học hay các hoạt
động xã hội dựa vào thông tin, tri thức và thông qua thông tin, tri thức là cơ
sở, là động lực thúc đẩy phát triển thông tin, tri thức nói riêng và nhận thức
của con ngời nói chung. Với tính cách là các hoạt động xã hội thấm đợm
135
thông tin, tri thức khoa học, thực hành ngày nay thẩm thấu vào tất cả các
phơng diện, vòng khâu, thang bậc, hình thức của việc học tập, vận dụng,
phát triển sáng tạo thông tin, tri thức khoa học, trong đó có lý luận. Toàn bộ
quá trình nhận thức, từ cảm giác sơ đẳng về cái trực quan sinh động đến t
duy trừu tợng - phân tích, trừu tợng - tổng hợp và cuối cùng kết thúc ở
vận dụng, phát triển sáng tạo thông tin, tri thức khoa học trong thực tế, ngày
nay đều do các nhu cầu thực tế quy định.
Thực tế hiện nay thấm đợm thông tin, tri thức khoa học, trong đó có
lý luận; cho nên, nó đòi hỏi thông tin, tri thức khoa học có chất lợng; tức
là có khả năng hớng dẫn, nâng cao năng suất, chất lợng, hiệu quả của
hoạt động thực hành. Thông tin, tri thức khoa học nói chung và lý luận nói
riêng, ngày nay chỉ có giá trị thực sự khi đợc hoạt động thực hành sàng
lọc, chấp nhận, vận dụng, phát triển sáng tạo, để phục vụ thực tế cuộc sống.
Trong sự bùng nổ thông tin, tri thức khoa học hiện nay, không tránh khỏi
tình trạng rác thải thông tin và tri thức khoa học. Vì thế việc đáp ứng
đợc nhu cầu hoạt động thực hành, hơn nữa, lại phục vụ tốt mục đích của
hoạt động thực hành, là tiêu chí đánh giá chất lợng của thông tin, tri thức
khoa học, trong đó có lý luận.
Hoạt động thực hành rõ ràng là tiêu chuẩn quyết định tính đúng - sai
của thông tin, tri thức khoa học. Các hình thức của thực hành hiện nay đang
diễn ra theo hớng đa dạng, phong phú trên tất cả các lĩnh vực của nền sản
xuất xã hội (sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần...) và đời sống xã hội con
ngời nói chung (quan hệ con ngời với vũ trụ, xã hội với bản thân). Biểu
hiện của các hình thức thực hành không chỉ có lao động sản xuất vật chất,
thực hành thí nghiệm khoa học, đấu tranh xã hội (đấu tranh giai cấp và dân
tộc, chiến tranh...), mà gồm cả lao động sản xuất tinh thần, hoạt động hòa
giải, đoàn kết xã hội, hội nhập quốc tế, hoạt động tìm hiểu, suy ngẫm về vị
trí, mối quan hệ của con ngời với thế giới (vũ trụ, xã hội, bản thân) v.v.
Thực hành ngày nay đang thể hiện sự đa dạng hóa hình thức hoạt động thực
tiễn và cả sự tăng tốc dòng chảy hoạt động thực hành mọi mặt của con
ngời.
Trên dòng chảy đó, dù có lúc ào ạt, có lúc lững lờ, thì cũng không
phải là ao tù nớc đọng khiến con ngời phải tắm hai lần trên một dòng
sông (Hêraclit). Tính toàn vẹn của dòng chảy thực hành đã và sẽ bao gồm
136
những hình thức rất đa dạng của hoạt động xã hội có chủ đích của con
ngời. Vì thế, mối quan hệ giữa các nhân tố vật chất (công cụ, phơng tiện
vật chất để tiến hành hoạt động xã hội, sản phẩm vật chất của hoạt động xã
hội...) và các nhân tố tinh thần (thông tin, tri thức khoa học nói chung và lý
luận nói riêng dới dạng tiền đề hoặc kết quả của hoạt động xã hội) - sẽ
diễn biến phức tạp với những biến thái va đập, lệch pha, phân ly,
chuyển hóa và thâm nhập lẫn nhau giữa chúng. Tổng hòa tất cả những
hình thức hoạt động xã hội đa dạng nhng có chủ đích của con ngời với
những biến thái phức tạp giữa cái vật chất và cái tinh thần đang tạo nên hoạt
động thực hành hiện nay.
Hoạt động thực hành hiện nay, do thấm đợm thông tin, tri thức khoa
học nói chung và lý luận nói riêng, nên đòi hỏi sự thực hành ở mức độ ngày
càng cao. Đây chính là nguyên nhân khẳng định tính thực hành của phơng
pháp luận Hồ Chí Minh vốn đặt trọng tâm vào sự thực hành. Hoạt động thực
hành hiện nay đang đặt ra các yêu cầu vận dụng sáng tạo phơng pháp luận
Hồ Chí Minh, trên các phơng diện sau:
Một là, gắn với thực tế đổi mới, phát triển của đất nớc trong điều
kiện hội nhập quốc tế.
Yêu cầu này đòi hỏi phải lấy chất lợng, hiệu quả các hoạt động xã
hội có chủ đích của ngời dân Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phát
triển đất nớc trong điều kiện hội nhập quốc tế là tiêu chuẩn đánh giá việc
vận dụng sáng tạo phơng pháp luận Hồ Chí Minh. Việc bổ sung, phát triển
phơng pháp luận Hồ Chí Minh cũng phải đợc thực hiện thông qua thực tế
đó, dĩ nhiên, phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các thuộc tính bản chất của
phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Nh vậy, yêu cầu này đặt ra vấn đề vận dụng sáng tạo phơng pháp
luận Hồ Chí Minh, trớc tiên và cơ bản, không phải là đa tất cả các quan
điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh vào việc xác định hình thức, nội dung
các hoạt động thực hành hiện nay. Vai trò soi đờng cho thực tế của phơng
pháp luận Hồ Chí Minh, theo đúng tinh thần Hồ Chí Minh, là thực hành.
Thuộc tính thực hành trong bản chất phơng pháp luận Hồ Chí Minh khác
biệt hoàn toàn với tính giáo điều. Nó đòi hỏi các hoạt động xã hội có chủ
đích của con ngời do thực tế hiện nay đặt ra phải có hiểu biết, có lý luận,
137
tức là phải gắn với thông tin, tri thức khoa học nói chung và lý luận nói
riêng; phải tiến hành các hoạt động thực hành bằng việc vận dụng sáng tạo
các nguồn lực trí tuệ ấy. Thông qua đó bồi dỡng không chỉ về năng lực, trí
tuệ của con ngời. Chính thuộc tính thực hành đã và sẽ làm cho phơng
pháp luận Hồ Chí Minh dễ dàng gắn với thực tế cuộc sống, ngay từ cơ sở
doanh nghiệp, cơ quan, trờng học, v.v.
Một điểm đặc sắc của phơng pháp luận Hồ Chí Minh là không chỉ
thực hành t tởng (thông tin, tri thức khoa học), mà thực hành cả đạo đức
làm ngời. Vì thế, thông qua thực hành phơng pháp luận Hồ Chí Minh,
con ngời trởng thành cả về trí tuệ và nhân cách văn hóa. Có thể nói, đây
là thuộc tính bản chất trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Do điểm đặc sắc này mà phơng pháp luận Hồ Chí Minh đã và sẽ
thẩm thấu, soi đờng cho các nguồn lực thông tin, tri thức khoa học hiện
đại trong điều kiện bùng nổ thông tin, tri thức khoa học của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Vì đơn giản là không hội tụ và tỏa
sáng cả về trí tuệ và đạo đức thì chúng dễ dàng và nhanh chóng trở thành
rác thải. Nói cách khác, do điểm đặc sắc này mà phơng pháp luận Hồ
Chí Minh dễ đi vào hành động của con ngời ở từng cơ sở.
Thực hành thông tin, tri thức khoa học nói chung, lý luận nói riêng cả
về trí tuệ và đạo đức trong hoạt động thực hành của con ngời hiện nay, dù
có ý thức hay không, thì một điểm xuất phát cơ bản và điểm đích tối u với
ngời Việt Nam, đều gắn với phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Thực hành nói đi đôi với làm về t tởng và đạo đức, trong phơng pháp
luận Hồ Chí Minh, tất nhiên vẫn cần sự khái quát lý luận trên cơ sở hiểu biết
của dân. Song cần nhấn mạnh rằng, tính dễ thẩm thấu vào thực tế cuộc sống
của phơng pháp luận Hồ Chí Minh, chính là sự thực hành cả về trí tuệ và đạo
đức. Đây là một điểm đặc sắc trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Một điểm đặc sắc nữa khiến phơng pháp luận Hồ Chí Minh dễ thấm
sâu vào trí nhớ, hành động của con ngời ở từng cơ sở là ở chỗ: t tởng
của Ngời không phải là những lời hớng đạo chung chung, dễ gây phản
cảm cho con ngời hiện nay, nhất là thanh niên. T tởng Hồ Chí Minh,
dù đợc định nghĩa thế nào thì xét về hình thức và nội dung là hệ thống
những tri thức khoa học, trong đó cơ bản là tri thức lý luận mang bản sắc
138
truyền thống t tởng - văn hóa Việt Nam. Ngoài ra còn rất nhiều thông tin
về quá trình hoạt động của Ngời, trong đó có không ít thông tin vẫn còn có
tính thời sự trong thời kỳ hiện nay và cả sau này. Chính điểm đặc sắc này đã
và sẽ dễ dàng truyền tải t tởng và đạo đức Hồ Chí Minh trong quảng đại
nhân dân, kể cả giới trẻ. Cần nắm vững và phát huy thuộc tính dễ gắn với
thực tế cuộc sống của phơng pháp luận Hồ Chí Minh, để hớng các hoạt
động xã hội, trớc tiên là lao động sản xuất các giá trị vật chất, tinh thần,
vào việc vận dụng sáng tạo phơng pháp luận Hồ Chí Minh theo đúng
những điểm đặc sắc trong phơng pháp luận ấy.
Thực tế đổi mới, phát triển của đất nớc trong điều kiện hội nhập quốc tế,
nhất là khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thơng mại thế giới (WTO),
đang đa dạng hóa và làm tăng nhịp độ các hoạt động xã hội có chủ đích của
con ngời. Đã và sẽ xuất hiện những dạng hoạt động thực tiễn mới không có
trong thời kỳ trớc đây; ví dụ hoạt động kinh doanh, quản lý chứng khoán hay
hoạt động trong công nghiệp - công nghệ thông tin v.v. Song thuộc tính thực
hành thông tin, tri thức khoa học nói chung, lý luận nói riêng gắn với thực
hành đạo đức trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh, vẫn và sẽ là thuộc tính
bất biến, để ứng vạn biến với các hình thức hoạt động thực tiễn mới. Vận
dụng sáng tạo phơng pháp luận Hồ Chí Minh theo yêu cầu gắn với thực tế đổi
mới, phát triển của đất nớc trong thời kỳ hội nhập quốc tế, trớc tiên và cơ
bản là xuất phát và hớng đích đến thuộc tính bản chất đó của phơng pháp
luận Hồ Chí Minh.
Hai là, bảo đảm tính lịch sử - cụ thể trong việc thực hành phơng
pháp luận Hồ Chí Minh.
Yêu cầu này đòi hỏi không nên hiện đại hóa từng quan điểm phơng
pháp luận Hồ Chí Minh; và cũng không đợc thoát ly các điều kiện lịch sử cụ thể trong giai đoạn hiện nay khi vận dụng sáng tạo phơng pháp luận Hồ
Chí Minh.
Các quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh đợc đúc rút từ những
điều kiện lịch sử - cụ thể điển hình thông qua t tởng, đạo đức, phong cách
có tính điển hình của một danh nhân văn hóa. Vì thế, ý nghĩa vợt thời gian
lịch sử - cụ thể của nhiều quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh đã và
sẽ là một thực tế lịch sử; ví dụ quan điểm phơng pháp luận về thực hành trí
139
tuệ gắn với thực hành đạo đức. Tất nhiên, trong quan điểm phơng pháp
luận Hồ Chí Minh cũng có những quan điểm chỉ gắn với một thời kỳ lịch sử
nhất định, ví dụ trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Đối với thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay, có thể ý nghĩa soi đờng về phơng pháp luận của chúng là không
lớn, không cập nhật. Song cũng phải thừa nhận một thực tế rằng, không ít
nớc trên thế giới đang phải trực tiếp giải quyết những vấn đề tơng tự, đã
không ít lần thừa nhận và tôn vinh ý nghĩa phơng pháp luận quốc tế của
những quan điểm đó.
Thực tế đó cho thấy rằng, các quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí
Minh nhìn chung là có tính vợt thời gian lịch sử - cụ thể đã hình thành nên
chúng; nghĩa là nó luôn có tính hiện đại ở không gian này hay không gian
khác. Nói cách khác, luôn luôn có khả năng vận dụng sáng tạo các quan
điểm này trong thời kỳ hiện đại, ở địa phơng này, ở ngành này (thậm chí ở
quốc gia này) hay ở địa phơng khác, ngành khác (quốc gia khác). Chính
tính lịch sử - cụ thể có tính điển hình về t tởng, đạo đức, phong cách của
một danh nhân văn hóa thế giới đã đúc rút đợc nhiều quan điểm phơng
pháp luận có ý nghĩa vợt thời gian, không gian lịch sử - cụ thể. Do đó, sẽ
là sai lầm khi hiện đại hóa từng quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Chân lý là cụ thể. Các quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh nhìn
chung, có thể đạt đến chân lý, là do đợc hình thành và đút kết từ cái cụ thể
điển hình; và việc vận dụng sáng tạo nó phải diễn ra trong và thông qua cái
cụ thể có tính lịch sử.
Trong việc vận dụng sáng tạo các quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí
Minh, không nên thoát ly các điều kiện lịch sử - cụ thể. Bởi lẽ, điểm cốt lõi
trong t tởng Hồ Chí Minh không phải là những lời hớng đạo chung
chung, mà là cách nghĩ, cách làm cụ thể đối với những hoạt động hay (ứng
xử) phổ biến của con ngời, nh cách ăn, ở, mặc, đi đứng, nói năng, rèn
luyện thân thể trong xây dựng đời sống mới; hay thực hành làm cho
ngời nghèo thì đủ ăn, ngời đủ ăn thì khá giàu, v.v; hoặc thực hành giải
phóng gắn liền với phát triển đời sống công nhân, nông dân, trí thức, phụ
nữ, ngời cao tuổi; v.v.
Vậy, cái gì là tác nhân thúc đẩy thực hành sáng tạo quan điểm phơng
pháp luận Hồ Chí Minh vào những cái cụ thể của ngày hôm nay? Đó chính
140
là sự hội tụ - tỏa sáng của những cái cụ thể điển hình về t tởng, đạo đức,
nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh; và việc thực hành chúng bằng cả trí tuệ và
đạo đức vốn là nhân lõi trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Ba là, bảo đảm tính khách quan trong thực hành sáng tạo phơng
pháp luận Hồ Chí Minh.
Yêu cầu này đòi hỏi việc nhận thức và vận dụng sáng tạo các quan
điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh với tính cách là những công cụ lý
luận và công cụ tiếp cận tất yếu đối với các hoạt động thực tiễn hiện nay.
Nói cách khác, bản thân các hoạt động thực tiễn hiện nay có yêu cầu khách
quan vận dụng sáng tạo các quan điểm phơng pháp luận Hồ Chí Minh.
Mong muốn chủ quan về việc vận dụng sáng tạo các quan điểm phơng
pháp luận này chỉ ở vị trí thứ yếu.
Yêu cầu này gần tơng đồng với yêu cầu thực hành sáng tạo phơng
pháp luận Hồ Chí Minh phải gắn với thực tế đổi mới, phát triển của đất
nớc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Điểm khác biệt của yêu cầu này là dựa
vào điều kiện khách quan hiện nay, để đề ra yêu cầu đối với việc vận dụng
sáng tạo phơng pháp luận Hồ Chí Minh; trong khi đó, ở yêu cầu trên, phải
xuất phát từ những thuộc tính nội tại trong phơng pháp luận Hồ Chí Minh,
để phát triển khả năng tiếp cận, bám sát, thâm nhập, thấm sâu của phơng
pháp luận Hồ Chí Minh vào các hoạt động thực tiễn hiện nay.
Theo tinh thần của Ph. Ăngghen, thực tế cuộc sống có nhu cầu sẽ thúc
đẩy việc vận dụng phơng pháp luận Hồ Chí Minh hơn mời trờng đại học.
Hoạt động thực tiễn hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải phát huy nhân tố con
ngời; muốn vậy, trớc hết phải xây dựng, phát triển con ngời mới; hoạt
động thực tiễn hiện nay đang đòi hỏi phải biến đổi từng cái cụ thể, hay biến
đổi ở từng cơ sở đi đôi với sự biến đổi cái chung, cái vĩ mô; hoạt động thực
tiễn hiện nay đang đòi hỏi nói đi đôi với làm hay thực hành có hiểu biết, có lý
luận trên cơ sở thông tin, tri thức khoa học nói chung, lý luận nói riêng; hoạt
động thực tiễn hiện nay đang đặt ra yêu cầu thực hành bằng nguồn lực trí tuệ
song song với thực hành bằng đạo đức; hoạt động thực tiễn hiện nay đang đòi
hỏi phải giữ vững nền độc lập dân tộc trong thế giới phẳng của toàn cầu hóa
bằng việc đổi mới cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta, v.v.
Đó là những yêu cầu khách quan hiện nay đối với hoạt động thực tiễn.
141