Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 527 trang )
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu trong nớc thì hiện nay trong
giới lãnh đạo và giới lý luận tồn tại ba kiểu nhận thức khác nhau: một kiểu
nhận thức lý luận "hai chân tụt lại đàng sau" (giáo điều, bảo thủ); một kiểu
nhận thức lý luận "một chân tụt lại đàng sau, một chân bớc lên đợc phía
trớc" (vừa giáo điều, bảo thủ, vừa có tiến bộ); một kiểu nhận thức lý luận "hai
chân đều bớc lên phía trớc" (hoàn toàn tiến bộ). Giới nghiên cứu lý luận cho
rằng, "một chân tụt lại đàng sau, một chân bớc lên đợc phía trớc" là kiểu
nhận thức "dung hoà", dễ đợc chấp nhận hơn cả. Nhng cũng có ý kiến cho
rằng, kiểu nhận thức dung hoà này thực chất là một dạng cơ hội chủ nghĩa.
Vậy, tiêu chí để xác định phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong tình hình hiện nay nh thế nào là đúng? Trớc hết, phải nhận thức rằng,
phát triển sáng tạo là phát triển trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, chứ không
phải phát triển trên nền tảng một thứ lý luận khác với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đây là vấn đề đợc xem nh có tính nguyên tắc. Thí dụ: Lý luận Mác-Lênin
không nói đến kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, nhng lý luận
Mác-Lênin đã nói đến kinh tế hàng hoá, thị trờng và đã nhiều lần nói đến
phát triển kinh tế trong chủ nghĩa xã hội. Đối với phát triển kinh tế trong chủ
nghĩa xã hội, các ông đã đa ra hàng loạt vấn đề nh chế độ sở hữu về t liệu
sản xuất, vấn đề phân phối, tiền lơng, ngày lao động, bảo hiểm lao động
Các ông xem chế độ sở hữu công cộng giữ địa vị thống trị. Công việc còn lại
của chúng ta là phát triển sáng tạo bên cạnh chế độ sở hữu công cộng là chế độ
sở hữu t nhân về t liệu sản xuất.
Lý luận Mác-Lênin không nói đến nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhng các ông đã để lại những công trình nghiên cứu rất đồ sộ về nhà
nớc xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đầu tiên mà C. Mác và Ph. ăngghen xây
dựng là nhà nớc chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ của nhà nớc chuyên chính
vô sản là thủ tiêu chế độ ngời bóc lột ngời và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
V.I. Lênin kêu gọi những ngời cộng sản phải bảo vệ chủ nghĩa Mác về nhà
nớc. Ông tán thành quan điểm của C. Mác và Ph. ăngghen về tính giai cấp
trong xây dựng nhà nớc chuyên chính vô sản, xem đó là luận điểm quan
252
trọng nhất trong học thuyết của C. Mác, Ph. ăngghen về nhà nớc và nhấn
mạnh đến việc gắn nhà nớc với cách mạng.
Đảng ta, trong quá trình hoạch định đờng lối, chính sách, đã nghiên
cứu những luận điểm quan trọng về nhà nớc của C. Mác, Ph. ăngghen, V.I.
Lênin, Hồ Chí Minh, đã có những bớc phát triển sáng tạo những luận điểm
của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học để xây dựng Nhà nớc Việt
Nam mới. Dấu ấn rõ nhất là đã phát triển "nhà nớc chuyên chính vô sản"
thành "Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân". Vấn đề này đã đợc xác định từ "Văn kiện Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khoá VII" của Đảng (tháng 1-1994)1. Khái
niệm "chuyên chính vô sản" đợc thay bằng khái niệm "hệ thống chính trị".
Khái niệm hệ thống chính trị đợc nêu lần đầu tại Hội nghị Trung
ơng 6 Khoá VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3-1989). Hệ thống chính
trị của Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nớc, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị-xã hội. Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đặt vấn đề một cách rõ ràng: "Toàn bộ tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị nớc ta trong giai đoạn mới là nhằm xây
dựng và từng bớc hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân"2. Hiến pháp nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 khẳng định: "Đảng là lực lợng lãnh đạo Nhà nớc và xã hội". Đó là
sáng tạo lý luận của Đảng về Nhà nớc trong thời kỳ đổi mới. Sáng tạo lý luận
này đợc phát triển trên cơ sở lý luận Mác-Lênin về nhà nớc xã hội chủ
nghĩa.
Tiêu chí đặt ra hiện nay là phải mạnh dạn đổi mới quan điểm nhận thức
về vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, xem học thuyết MácLênin là học thuyết vận động, khả biến, học thuyết của những dòng chảy liên
1
Trong "Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khoá VII" có viết: "Hơn 2
năm qua, nền dân chủ của xã hội ta đã có bớc phát triển đáng kể, gắn liền với việc xây
dựng Nhà nớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân" , (Tài liệu lu hành
nội bộ, tr. 13).
2
Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1991, tr. 19.
253
tục, chứ không phải là học thuyết đứng yên tại chỗ. Nhận thức là một quá trình
vận động đi lên, hoàn cảnh biến đổi liên tục, nên sẽ phạm sai lầm về phơng
pháp nếu chúng ta nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin theo phơng pháp tĩnh
lặng. Phơng pháp vận động, biến đổi, phát triển chính là phơng pháp biện
chứng. Có lẽ đây là phơng pháp khoa học cơ bản mà nếu áp dụng tốt sẽ thành
công trong nghiên cứu. Bản thân phơng pháp chính là cách thức đề cập hiện
thực. Vận dụng lý luận Mác-Lênin trên miếng đất của hiện thực chính là áp
dụng phơng pháp biện chứng mácxít một cách đúng đắn nhất.
Đối với các nớc phơng Đông, do hoàn cảnh địa lý và dân c, tuyệt
đại đa số là nông dân, nông nghiệp còn manh mún, công nghiệp cha phát
triển, nên khi áp dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, cần xác định là áp dụng những
tinh tuý của chủ nghĩa Mác-Lênin, chứ không thể áp dụng toàn bộ kho tàng lý
luận Mác-Lênin vào hoàn cảnh của nớc mình. Cái gì tồn tại là cái đó còn có
khả năng phát triển, cái gì không thể tồn tại là cái đó không còn khả năng phát
triển. Trong xu thế của thế giới và trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay mà
chúng ta cứ "bê nguyên xi" học thuyết "chuyên chính vô sản" vào đờng lối,
chính sách và áp dụng vào thực tiễn của đất nớc là khiên cỡng. Vấn đề là ở
chỗ phải phát triển học thuyết đó sao cho phù hợp với xu thế phát triển. Đấy
mới là đích thực biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. Mục tiêu của
chúng ta là khi vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin là phải làm phong phú lý luận
Mác-Lênin để nhân dân thấy đợc đó là sức sống, là hơi thở tinh thần, chứ
không phải chỉ nhăm nhăm "tầm chơng trích cú" các tác phẩm kinh điển của
C. Mác, Ph. ăngghen, V.I. Lênin
Tiêu chí phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin hiện nay là phải đổi mới
quan điểm nhận thức về chủ nghĩa t bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội mới
hình thành để xác định đúng đắn những vấn đề cần phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin. C. Mác, Ph. ăngghen, V.I. Lênin đều có những nhận định
đúng đắn về chủ nghĩa t bản. C. Mác, Ph. ăngghen là những ngời đầu tiên
tìm ra quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội t bản chủ nghĩa và chỉ ra
những mâu thuẫn nảy sinh trong lòng xã hội t bản chủ nghĩa, khi lực lợng
sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất.
254
V.I. Lênin phát triển lý luận của C. Mác, Ph. ăngghen về chủ nghĩa t
bản thành chủ nghĩa đế quốc. Theo V.I. Lênin, xét về bản chất, chủ nghĩa t
bản và chủ nghĩa đế quốc là một. Xuất phát từ lợi ích và quyền uy, chủ nghĩa
t bản (chủ nghĩa đế quốc) không bao giờ chịu từ bỏ lợi ích của mình và nh
vậy, luôn luôn có sự đối địch với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa t bản là mâu thuẫn đối kháng. Cuộc đấu tranh để
giải quyết mâu thuẫn này chính là cuộc đấu tranh giai cấp. Có điều là phơng
pháp đấu tranh nh thế nào để chủ nghĩa xã hội có thể chiến thắng chủ nghĩa
t bản là vấn đề cần nghiên cứu.
Nghiên cứu những bài viết cuối đời của V.I. Lênin, thấy ông rất trăn trở
về vấn đề này. V.I. Lênin đã đề xuất một phơng pháp đấu tranh mới là hình
thức hoà bình và không hoà bình để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
trong những hình thức khác nhau của sự phát triển cách mạng tiến lên chủ
nghĩa xã hội đợc quy định bởi những điều kiện cụ thể của hoàn cảnh lịch sử.
V.I. Lênin đã nhiều lần trình bày ý nghĩ về khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội
bằng những con đờng khác nhau, rằng, khả năng phát triển cách mạng một
cách hoà bình là "cực kỳ quý báu", nhng cũng "cực kỳ hiếm hoi", "đặc biệt
hiếm hoi"1 và nó chỉ có thể thực hiện đợc với tính cách là con đờng sử dụng
rộng rãi các thể chế nghị viện dân chủ, qua các cuộc bầu cử ở các nớc phơng
Tây.
Đối với cuộc đấu tranh với chủ nghĩa t bản trong hoàn cảnh hiện nay,
cần nghiên cứu để vận dụng sáng tạo những luận điểm của C. Mác, Ph.
ăngghen, V.I. Lênin về phơng pháp hoà bình của cách mạng. Tuy nhiên, cho
đến nay, cha thấy cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào giành đợc chính
quyền bằng con đờng đấu tranh hoà bình.
Để phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin một cách đúng đắn, phải
tính đến sự phát triển lâu dài của chủ nghĩa t bản trên phạm vi toàn thế giới.
Nghiên cứu về chủ nghĩa t bản hiện đại thấy vẫn còn một số thế mạnh về phát
triển kinh tế, khoa học và kỹ thuật, khoa học và công nghệ, khoa học quản lý
nhà nớc. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm cách chuyển nó sang cho chủ nghĩa
1
Xem V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, T.34, tr. 180.
255
xã hội. Nhng có một nhà nghiên cứu nói rằng, khi chuyển đợc khoa học và
kỹ thuật, khoa học và công nghệ cùng với kinh tế, tài chính của chủ nghĩa t
bản sang chủ nghĩa xã hội, thì những thành tựu đó của chủ nghĩa t bản lại
phát triển lên ở trình độ cao hơn, nên chủ nghĩa t bản vẫn nổi trội hơn chủ
nghĩa xã hội.
Phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phải tính đến vai trò, vị trí
của giai cấp công nhân trong thời đại khoa học và kỹ thuật, khoa học và công
nghệ, nhất là tin học, đang phát triển rất nhanh. Muốn giữ vững và phát huy
quyền lãnh đạo, giai cấp công nhân cần phải xem lại chính mình. Trong tình
hình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, giai cấp công nhân không thể giữ vững
vai trò lãnh đạo cách mạng nếu chỉ đứng một mình, mà không có sự liên kết
với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân.
Khi áp dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phải tính đến
hoàn cảnh, đặc thù và xu thế phát triển của mỗi nớc; không khô cứng, giáo
điều, nhng cũng không pha loãng, pha tạp; giữ cái không thay đổi và xử lý
những cái cần thay đổi. Cái không thay đổi là gốc, cái thay đổi là ngọn. Lịch
sử đã chứng minh sự phát triển của dân tộc này hoàn toàn khác với sự phát
triển của dân tộc khác do hoàn cảnh chính trị, xã hội, địa lý, đặc điểm dân
tộc, quy định. Vì vậy, nếu đem đờng lối, chính sách của đảng này, nớc
này áp dụng một cách dập khuôn vào đờng lối của đảng khác, nớc khác,
nhất định sẽ bị thất bại. Đây là bài học đắt giá của nhiều nớc, trong đó có
Việt Nam. Trong thời kỳ cải tổ, cải cách, đổi mới, hội nhập, thì sự diễn biến
này càng phức tạp.
Qua những phân tích trên đây, chúng ta có thể dựa vào mấy căn cứ để
xác định tiêu chí phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam:
- Dựa vào các tác phẩm của C. Mác, Ph. ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí
Minh và các tác phẩm của các nhà chính trị, nhà khoa học.
- Dựa vào quan điểm thực tiễn, đã, đang và sẽ diễn ra trên thế giới, trong
từng nớc.
256
- Dựa vào đờng lối, thể hiện trong các văn kiện của Đảng và Nhà nớc.
- Dựa vào xu thế phát triển của thế giới.
Từ những điều trên đây, chúng ta có thể xem xét bớc đầu cách mà Hồ
Chí Minh sáng tạo lý luận Mác - Lênin, nghiên cứu vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để đề ra đờng lối, chính sách đúng
đắn, sáng tạo, phát triển
Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh là nhà cách mạng chuyên nghiệp, đã
đi từ chủ nghĩa yêu nớc đến chủ nghĩa Mác - Lênin. T tởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Ngời là độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội, giai cấp gắn với dân tộc. Ngời không bao giờ bóc tách vấn đề
giai cấp ra khỏi vấn đề dân tộc. Đây vừa là quan điểm, vừa là phơng pháp
cách mạng độc đáo của Ngời. Đó còn là sự vận dụng rất sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Quan điểm và phơng pháp này đã đa Ngời thoát khỏi sách vở giáo
điều. Mọi cái đối với Ngời đều là kim chỉ nam. Trong nhận thức của Ngời,
bao giờ chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Sự vật
và hiện tợng chỉ có khả biến (không nguyên nh trớc, có thể thay đổi cho
phù hợp với hoàn cảnh), chứ không có bất biến (vẫn nguyên nh trớc, không
thay đổi). Một số ngời trong Quốc tế Cộng sản (trong đó có một số ngời
Việt Nam học tại Trờng Đại học Phơng Đông) không hiểu điều này, nên cứ
kh kh giữ lấy cái bất biến, thành ra giáo điều và từ giáo điều biến thành chủ
quan, duy ý chí.
Vấn đề đặt ra đối với Hồ Chí Minh là tiếp thu những tinh hoa của lý luận
Mác - Lênin và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, chứ không phải sao
chép và hiểu một cách máy móc lý luận Mác - Lênin. Lý luận chỉ có thể định
hớng cho cuộc sống, chứ không thể thay thế cho cuộc sống. Tơng ứng nh
vậy, khi nghiên cứu về t tởng Hồ Chí Minh, chúng ta cũng không thể xem
đó là cố định, mà phải đặt nó trong sự vận động và xu thế phát triển của xã hội.
Có nh vậy, mới hiểu đúng t tởng của Ngời. Hồ Chí Minh là ngời Việt
Nam, trí tuệ Việt Nam. Nếu ai đó tôn Ngời là thánh, thì chính ngời đó hạ
thấp t tởng của Ngời. Lý luận của C. Mác, Ph. ăngghen, V.I. Lênin không
257
phải là không có chỗ trống do sự biến đổi của thời gian và hoàn cảnh. Nó cũng
không phải thay thế cho tất cả. Đúng nh V.I. Lênin nói: "Chúng ta không thể
coi lý luận Mác nh một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng, lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
ngời xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng, những ngời xã
hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của
Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng
những nguyên lý ấy, thì xét từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp
không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga"1. V.I. Lênin còn viết: "C. Mác
và Ph. ăngghen đã nhiều lần nói rằng, học thuyết của chúng ta không phải là
giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động, và tôi nghĩ rằng, chúng ta phải
thấy điều đó trớc hết và nhiều hơn hết"2. Vì vậy, chúng ta phải có thái độ
khoa học đối với chủ nghĩa Mác. "Kiên quyết phản đối những khuynh hớng
sai lầm coi chủ nghĩa Mác là giáo điều cứng nhắc, hoặc tách rời chủ nghĩa
Mác để "phát triển" chủ nghĩa Mác"3.
T tởng Hồ Chí Minh cũng vậy. Nếu chúng ta muốn thúc đẩy đất
nớc phát triển hơn nữa, thì phải bổ sung những chỗ còn trống trong t tởng
của Ngời, phát triển t tởng của Ngời, áp dụng t tởng đó vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam, đề ra đờng lối đúng đắn, sáng tạo, phát triển và có
phơng pháp tổ chức thực hiện đúng, làm nh vậy, chúng ta góp phần nâng
tầm t tởng của Ngời lên. Trung thành trong tình hình hiện nay đồng nghĩa
với phát triển. Bảo thủ, giáo điều dẫn đến trì trệ và duy ý chí, còn bất chấp tất
cả, vợt ra ngoài những lý luận cơ bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học, đều không thể gọi là trung thành và trớc sau cũng phải trả giá.
1
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, tập 4, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 230.
Dẫn theo "C.Mác- Tiểu sử", tập 2, do một tập thể tác giả Liên Xô viết, P.N. Phêđôxêiép
Chủ biên, tiếng Nga, Nxb Chính trị quốc gia, Mátxcơva, 1968; bản dịch ra tiếng Việt, Trần
Việt Tú dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr. 528.
3
Viện Nghiên cứu lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin Trờng Đại học Nhân dân
Trung Quốc: Lịch sử chủ nghĩa Mác, tiếng Trung Quốc, tập 2; bản dịch, tiếng Việt, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 217.
2
258
Phơng pháp sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh bao giờ cũng tính đến
khả năng và hiện thực. Khả năng thể hiện ở sự phát triển khách quan. Bất cứ
cái gì cũng phải phát triển. Trong quá trình phát triển, cái mới ra đời không
phải trong một lúc đã đợc xác lập hoàn bị ngay từ đầu, mà lúc đầu nó chỉ là
khả năng. Khi nói đến khả năng có nghĩa là cha phải hiện thực, mà chỉ là xu
hớng phát triển. Trong sự phát triển của khả năng, có thể chỉ là trừu tợng,
nhng cũng có thể biến thành hiện thực.
Vì vậy, lý luận Mác - Lênin cũng chỉ là khả năng, nhng là khả năng
biến thành hiện thực nếu chúng ta biết đem khả năng đó để giải quyết vấn đề
của hiện thực. Muốn biến cái khả năng đó thành hiện thực, lại phải trông cậy
vào phẩm chất của những nhà cách mạng chuyên nghiệp. Nếu ai đó cho rằng,
lý luận Mác - Lênin là học thuyết đã hoàn thiện trăm phần trăm, thì vô hình
trung rơi vào ý chí luận.
Hồ Chí Minh là ngời biết biến khả năng thành hiện thực. Chủ nghĩa
yêu nớc của Ngời là cơ sở để Ngời biến khả năng thành hiện thực. Tất
nhiên, từ cái khả năng trở thành cái hiện thực, còn là một khoảng cách mà xa
hoặc gần của khoảng cách đó lại còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và trí tuệ của
nhà cách mạng. Hồ Chí Minh là ngời biết rút ngắn khoảng cách. Với Ngời,
khả năng của cái mới, cái tiến bộ đối lập với khả năng của cái bảo thủ, lỗi thời.
Nếu không đấu tranh với những cái cũ, lạc hậu, thì cái cũ, lạc hậu có thể là trở
ngại lớn đến sự ra đời của cái mới, cái cách mạng. Khả năng của sự phát triển
cách mạng, tiến bộ không bao giờ trở thành hiện thực nếu không có đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và lạc hậu.
Vì vậy, trong quan điểm và phơng pháp của Hồ Chí Minh bao giờ cũng
nhằm thúc đẩy cái mới, cái tiến bộ ra đời. Ngời đã tiến hành đấu tranh bằng
sự thuyết phục và không áp đặt để chống lại tất cả những gì làm cản trở đến sự
phát triển của cái mới, cái tiến bộ. Thí dụ: Với tinh thần quốc tế, Ngời kiên trì
quan điểm giữ gìn hoà bình trên thế giới hoàn toàn có khả năng thực hiện đợc
nếu các nớc tôn trọng nhau và đối xử bình đẳng với nhau. Ngay nh định
nghĩa về thời đại theo xu thế độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình. Cuộc đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới đang là vấn đề gây cấn trong nhận thức. Muốn
259
hiểu đúng nó, phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Khi C. Mác nói "quá
trình phát triển, tất cả những gì trớc kia là hiện thực, nay trở thành không hiện
thực, mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại, mất tính hợp lý của chúng; và hiện
thực mới đầy sinh lực, thay thế cho hiện thực đang tiêu vong, thay thế một
cách hoà bình nếu cái cũ tỏ ra biết điều để đi vào cõi chết mà không phản
kháng lại; thay thế bằng bạo lực nếu cái cũ phản kháng lại sự tất yếu đó"1 là C.
Mác muốn nói đến chủ nghĩa t bản, nếu hiểu sang cái khác là không đúng.
Hồ Chí Minh hiểu cái mới không phải tất cả những cái gì ra đời và tồn
tại, mà là cái ra đời để phát triển, mới ở đây mang ý nghĩa kế thừa truyền
thống, nhng không đồng nghĩa với những cái đã có trong truyền thống, mà nó
đồng nghĩa với phát triển. Phát triển không phải lặp lại đơn thuần quá khứ, mà
là sự vận động tiến dần từ trình độ thấp lên trình độ cao, không phải là sự vận
động vòng tròn, mà là sự vận động đi lên. Nhận thức về phát triển cũng là một
quá trình từ cục diện đến toàn diện. Cái mới sẽ mất địa vị tiên tiến của nó nếu
nó không tự hoàn thiện và dừng lại không tiến lên nữa. Cái mới phải là động
lực của sự phát triển. Chắt lọc cái cũ để sáng tạo và nhân lên cái mới, cũng là
cái mới. Cái cũ đôi khi có thể mang hình thức của cái mới, vì tuy "đã cũ",
nhng nó vẫn còn có những hạt nhân hợp lý. Thí dụ: Sẽ là sai lầm trong nhận
thức cho rằng, sự ra đời của văn hoá mới, lại không tận dụng những thành tựu
của văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều cái cũ không còn
là động lực của tiến bộ nữa và trở thành chớng ngại cho sự phát triển tiến lên.
Tuy nó không phải là cái tiêu cực, nhng nó lại là cái không còn phù hợp nữa,
nên phải thay đi. Trong đờng lối, chính sách cũng vậy, Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng phải luôn luôn tổng kết và điều chỉnh, xem cái gì còn phù hợp, thì
giữ lại, cái gì không phù hợp phải thay đi, không nên giữ lại quá lâu những cái
không còn phù hợp. Có nh vậy mới đáp ứng đợc yêu cầu mới của cách
mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh chẳng có gì xa vời, cũng không có gì
giống với thuyết định mệnh và ý chí luận. Nó rất gần gũi với đời sống xã hội
1
C. Mác -Ph. ăngghen: Toàn tập, tiếng Việt, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr. 393.
260
và dân tộc Việt Nam. Với Ngời, muốn biến khả năng thành hiện thực, thì phải
hoạt động theo quy luật khách quan. Đem ý chí chủ quan thay cho quy luật
khách quan sẽ đi ngợc lại quy luật khách quan. Muốn đề ra và thực hành một
chính sách đúng, trớc hết phải hớng vào sự phát triển của tơng lai, phải
nhìn về phía trớc, chứ không đợc quay lại phía sau; phải biết giải quyết mâu
thuẫn mỗi khi mâu thuẫn phát sinh; phải biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề
một cách hợp lý; phải nắm vững cái chung và cái đặc thù, không đợc đem cái
chung thay cho cái đặc thù. Cái chung chỉ để tham khảo, còn cái đặc thù là để
thực thi. Nếu đem áp đặt cái chung thay cho cái đặc thù sẽ dẫn đến tiêu diệt cả
cái chung lẫn cái đặc thù. Cũng không thể đem cái đặc thù của nớc này áp
dụng vào nớc kia, thành cái đặc thù của nớc kia, vì mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia có những nét riêng, không ai giống ai. Tuy nhiên, việc tham khảo những
kinh nghiệm của các nớc là rất cần thiết.
Hồ Chí Minh rất ít khi dùng thuật ngữ "phơng pháp luận", mà Ngời
thờng nói đến "cách thức", "cách làm", "cách tiến hành". Những "cái cách"
của Ngời chính là phơng pháp luận. Nghiên cứu những tác phẩm của Ngời,
chúng ta thấy cả một kho tàng về phơng pháp luận. Phơng pháp luận của
Ngời trong việc nghiên cứu vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam chính là phơng pháp lịch sử và
lôgíc.
Dòng chính của lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam để đề ra đờng lối đấu tranh đúng
đắn. Giải phóng dân tộc là lịch sử đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp cần lao để xây dựng một nớc Việt Nam
độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tạo môi trờng hoà bình
trên thế giới. Hồ Chí Minh hiểu đúng lịch sử ra đời của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Đó là việc xem xét quá trình hình thành, phát sinh, phát triển. Chủ nghĩa Mác Lênin đợc hình thành trong thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, kết hợp
chặt chẽ giữa hoạt động lý luận và thc tiễn đấu tranh. Qua thực tiễn, chủ
nghĩa Mác-Lênin đợc kiểm nghiệm, bổ sung và vận dụng. Chính nhờ bắt
nguồn từ hiện thực, chủ nghĩa Mác-Lênin có sức sống mạnh mẽ. Còn nó có
261
đợc trờng tồn hay không lại còn tuỳ thuộc vào đờng lối, chính sách của
mỗi đảng cộng sản, mỗi nớc, tuỳ thuộc vào nhận thức của những ngời lãnh
đạo đảng và nhà nớc đó. V.I. Lênin là ngời phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác một cách thành công nhất. Hồ Chí Minh là ngời phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Lênin một cách thành công nhất.
Trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đôi khi xuất hiện khuynh hớng thiên về khái
quát lý luận và khuynh hớng liệt kê sự việc. Hồ Chí Minh đã áp dụng cả
phơng pháp lịch sử và phơng pháp lôgíc trong việc nghiên cứu và vận dụng
chủ nghĩa Mác-Lênin. Quan điểm duy vật lịch sử để xem xét vấn đề là bộ phận
cấu thành quan trọng của chủ nghĩa Mác. V.I. Lênin và Hồ Chí Minh đều hiểu
rõ vấn đề này và các ông đã thành công trong việc vận dụng nó để đề ra đờng
lối, chính sách cho nớc Nga và Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, cách sáng tạo lý luận chính là cách thức xem xét
hiện thực. Muốn xem xét hiện thực một cách đúng đắn phải đặt nó trong hoàn
cảnh hiện thực khách quan. Đối với Hồ Chí Minh, phơng pháp chỉ đúng khi
nào nó phản ánh đúng hiện thực xã hội; phải xem xét nó trong đời sống xã hội,
chứ không xem xét nó trong sách vở; xem xét nó trong trạng thái động, chứ
không phải trong trạng thái tĩnh; xem xét nó trong sự biến hoá, đổi mới, phát
sinh, phát triển; xem xét nó trong sự phê phán và cách mạng.
Cách mà Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận MácLênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam thể hiện nh thế nào?
Trớc hết, cần xác định khái niệm chủ nghĩa Mác-Lênin. Hiện nay, đọc
trên mạng internet và đọc một số bài viết, một số ngời cho rằng, không có
chủ nghĩa Mác-Lênin, mà chỉ có chủ nghĩa Mác mà thôi. Họ cho rằng, việc
gán Lênin vào chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác-Lênin là sống sợng; rằng,
lý luận chính trị của V.I. Lênin chỉ là hiện tợng ở nớc Nga, chứ không mang
tính quốc tế, không mang tính khoa học. Quan niệm này không đúng, là sự
ngộ nhận, suy diễn chủ quan. Chính Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Ngời đã nhắc tới hơn 70 lần về thuật ngữ "chủ nghĩa MácLênin" trong các tác phẩm của mình. Một số lần, Hồ Chí Minh nói riêng về
262