1. Trang chủ >
  2. Lý luận chính trị >
  3. Tư tưởng Hồ Chí Minh >

Chương 3 : Quá trình hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 527 trang )


Cho đến nay, đã có nhiều cách phân kỳ quá trình hình thành và phát

triển t tởng Hồ Chí Minh.

- Theo nhà nghiên cứu Hoàng Tùng, cũng nh quá trình phát triển của

cách mạng Việt Nam, t tởng Hồ Chí Minh có ba giai đoạn hình thành và

phát triển:

+ Giai đoạn 1: Từ khi ra đi tìm đờng cứu nớc đến khi tìm đợc t tởng

khoa học của chủ nghĩa Mác, qua V.I. Lênin và Cách mạng tháng Mời Nga.

+ Giai đoạn 2: Xác định con đờng giải phóng dân tộc, giải phóng xã

hội, lãnh đạo cách mạng từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

+ Giai đoạn 3: Xây dựng Nhà nớc dân chủ nhân dân, tiến hành hai

cuộc kháng chiến cứu nớc và xây dựng xã hội mới ở miền Bắc(1).

- PGS.TS Thành Duy cũng phân chia quá trình hình thành t tởng Hồ

Chí Minh thành ba thời kỳ:

+ Thời kỳ thứ nhất là cả quãng đời niên thiếu đến lúc Ngời ra đi tìm

đờng cứu nớc.

+ Thời kỳ thứ hai bắt đầu từ năm 1911 lúc Ngời ra đi đến năm 1920,

lúc Ngời gặp "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cơng về vấn đề dân tộc và

vấn đề thuộc địa" của V.I. Lênin. Đó là thời kỳ tìm đờng thật sự.

+ Thời kỳ thứ ba bắt đầu từ sau lúc Ngời đọc "Sơ thảo lần thứ nhất

những luận cơng về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I. Lêni, coi

chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình(2).

- Theo PGS.TS Nguyễn Bá Linh, ba giai đoạn trong quá trình hình

thành và phát triển t tởng Hồ Chí Minh là:

+ Giai đoạn 1 (trớc ngày ra đi tìm đờng cứu nớc): Bớc đầu hình

thành t tởng yêu nớc.

(1) Hoàng Tùng, Quá trình hình thành t tởng Hồ Chí Minh và giá trị chỉ đạo đối với cách mạng Việt Nam,

trong cuốn "Góp phần tìm hiểu t tởng Hồ Chí Minh", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992, tr. 59.

(2) PGS.TS Thành Duy, Cơ sở lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành t tởng Hồ Chí Minh. Nghiên

cứu t tởng Hồ Chí Minh, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993, tr. 98-109.



89



+ Giai đoạn 2 (1911 - 1920): Từ t tởng yêu nớc tiếp thu hệ t tởng

vô sản và trở thành ngời cộng sản.

+ Giai đoạn 3 (1920 - 1969): Hoàn chỉnh về cơ bản t tởng Hồ Chí Minh(1).

Cũng chia quá trình hình thành và phát triển t tởng Hồ Chí Minh

thành ba giai đoạn, nhng theo một số tác giả khác, ba giai đoạn này về cơ

bản tơng ứng với những cái tên mà Ngời đã mang trong thời gian đó. Đó là

giai đoạn Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (1890 - 1920); giai đoạn

Nguyễn ái Quốc (1920 - 1941); giai đoạn Hồ Chí Minh (1941 - 1969).

- Đại tớng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn T tởng Hồ Chí Minh và

con đờng cách mạng Việt Nam đã chia quá trình hình thành và phát triển t

tởng Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ.

+ Thời kỳ thơ ấu đến trớc lúc ra đi tìm đờng cứu nớc (1890 - 1911).

+ Thời kỳ khảo sát, tìm tòi và đến với chủ nghĩa Lênin (1911 - 1920).

+ Thời kỳ hoạt động ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và chuẩn bị cho sự

ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1921 - 1930).

+ Thời kỳ Nguyễn ái Quốc gặp những thử thách gay go và kiên trì giữ

vững quan điểm, t tởng của mình (1931 - 1940).

+ Thời kỳ Nguyễn ái Quốc về nớc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt

Nam (1941 - 1969).

Giáo trình t tởng Hồ Chí Minh của Hội đồng Trung ơng biên soạn

sách giáo khoa các bộ môn khoa học Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, do

GS Song Thành chủ biên đồng ý với cách phân chia này.

- Tập bài giảng T tởng Hồ Chí Minh của Trờng Đại học Khoa học

xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và Giáo trình T tởng Hồ Chí

Minh (dùng trong các trờng đại học và cao đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào tạo

phân chia quá trình hình thành, phát triển t tởng Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ:

+ Thời kỳ hình thành t tởng yêu nớc (trớc 1911).

(1) PGS.TS Nguyễn Bá Linh, T tởng Hồ Chí Minh - một số nội dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 1994, tr. 37-51.



90



+ Thời kỳ tìm đờng cứu nớc (1911 - 1920).

+ Thời kỳ hình thành cơ bản t tởng về con đờng cách mạng Việt

Nam (1921 - 1930).

+ Thời kỳ kiểm nghiệm và khẳng định (1930 - 1945).

+ Thời kỳ tiếp tục phát triển (1945 - 1969).

Sau nhiều cuộc hội thảo, trao đổi, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng,

tiêu chí phân kỳ các giai đoạn hình thành và phát triển t tởng Hồ Chí Minh

là phải căn cứ vào những mốc quan trọng đánh dấu bớc hình thành và phát

triển của t tởng Hồ Chí Minh. Nhìn chung, không ít các công trình nghiên

cứu đều phân kỳ dựa vào những mốc lớn trong quá trình hoạt động thực tiễn

của Hồ Chí Minh và cha chỉ ra đợc nội dung cơ bản của t tởng Hồ Chí

Minh trong từng giai đoạn. Chính vì vậy, nhiều tác giả lựa chọn năm 1945 làm

mốc phân kỳ trong quá trình hình thành và phát triển t tởng Hồ Chí Minh

thay cho năm 1941 nh các công trình nghiên cứu khác đã khẳng định. Bởi,

năm 1941 thực chất chỉ là một mốc lịch sử đánh dấu thời kỳ Hồ Chí Minh trực

tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, còn t tởng của Ngời cha có một bớc

phát triển đặc biệt. Nhiều tác giả cho rằng, chọn năm 1945 là đúng, vì nó đánh

dấu sự kết thúc thời kỳ t tởng Hồ Chí Minh bị thử thách, kiểm nghiệm và

đợc khẳng định, đồng thời mở đầu cho thời kỳ t tởng của Ngời tiếp tục

phát triển. Năm 1945, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, cũng chính là

thắng lợi đầu tiên của t tởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Cũng từ đây, thực tiễn đất nớc đặt ra một loạt những vấn đề mới, đòi hỏi t

tởng Hồ Chí Minh tiếp tục phải đợc bổ sung, phát triển và hoàn thiện.

Theo chúng tôi, nêu rõ, đúng, chính xác sự phân chia các thời kỳ lịch

sử t tởng Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta nắm đợc những nội dung t tởng

cơ bản của Ngời, trong từng thời kỳ, phản ánh khách quan hiện thực lịch sử

và tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. Vì thế, tiêu chí cơ bản để phân kỳ là dựa

vào sự chuyển biến về nội dung t tởng của Hồ Chí Minh trong từng thời kỳ

lịch sử cụ thể, chứ không phải dựa vào các sự kiện gắn với thời gian hoạt động



91



của Ngời. Phân kỳ thông qua vận động của t tởng cho phép hình dung sự

phát triển t tởng Hồ Chí Minh là một dòng chảy liền mạch, nhất quán, luôn

luôn đợc bổ sung, hoàn thiện. Sự phát triển t tởng Hồ Chí Minh ở giai đoạn

sau so với giai đoạn trớc đó đợc chúng tôi hiểu theo các góc độ:

- Sự vận động theo chiều rộng: Mở rộng chủ đề, đối tợng, lĩnh vực

phản ánh; giai đoạn sau nhiều hơn, đa dạng và phong phú hơn giai đoạn trớc.

- Sự vận động theo chiều sâu: Một quan điểm, t tởng đợc luận

chứng sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đầy đủ căn cứ hơn ở giai đoạn sau so với

giai đoạn trớc, tính cách mạng, khoa học rõ hơn, triệt để hơn nhng vẫn đảm

bảo sự nhất quán, thống nhất của lôgíc thực tại khách quan.

- Sự hiện thực hóa của t tởng, quan điểm của Hồ Chí Minh trong thực

tiễn cách mạng Việt Nam; khả năng hiện thực hóa các t tởng biểu hiện tính

chân lý đúng đắn, năng lực cải tạo, biến đổi hiện thực cuộc sống, khẳng định trên

thực tế vai trò chọn đờng, dẫn đờng, soi đờng của t tởng Hồ Chí Minh.

Phân kỳ t tởng Hồ Chí Minh theo các tiêu chí vừa nêu buộc nhà

nghiên cứu khi phân tích các giai đoạn của tiến trình lịch sử phải dựa vào các

"nguyên liệu t tởng, lý luận" để xác định rõ các giai đoạn, thời kỳ sau phải

có những bớc phát triển cụ thể hơn so với thời kỳ trớc đó.

Từ những nhận thức vừa nêu và các căn cứ đợc xác định, chúng tôi phân

chia quá trình hình thành và phát triển t tởng Hồ Chí Minh thành 5 thời kỳ.

1- Thời kỳ hình thành t tởng yêu nớc, thơng dân và xác định chí

hớng cứu nớc (1890 - 1911).

2- Thời kỳ nghiên cứu, khảo sát thực tế và đến với chủ nghĩa Mác Lênin (1911 - 1920).

3- Thời kỳ hình thành cơ bản t tởng về cách mạng Việt Nam (1921 - 1930).

4- Thời kỳ thử thách, khó khăn, kiểm nghiệm tiến tới giành thắng lợi

đầu tiên trong thực tiễn cách mạng Việt Nam (1930 - 1945).

5- Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện (1945 - 1969).



92



II. Các thời kỳ chủ yếu trong quá trình hình thành và

phát triển của t tởng Hồ Chí Minh



1. Thời kỳ hình thành t tởng yêu nớc, thơng dân và xác định

chí hớng cứu nớc (1890 - 1911)

Trong thời kỳ này, Nguyễn Sinh Cung đã tiếp thu đợc truyền thống

yêu nớc và lòng nhân ái từ gia đình và quê hơng, đất nớc, trớc hết là của

quê hơng Nam Đàn, xứ Nghệ, nơi Anh sinh ra, sống tuổi ấu thơ (từ 1890 đến

1895 và 1901 đến 1906) và của Thừa Thiên - Huế, nơi Anh sống cùng cha là

cụ Nguyễn Sinh Sắc và theo học Trờng tiểu học Đông Ba rồi Trờng Quốc

học Huế (từ 1895 đến 1901 và từ 1906 đến 1909). Tại quê hơng, Anh đợc

khai tâm bằng chữ Hán, đợc hấp thụ tinh thần yêu nớc bất khuất của các

phong trào đấu tranh chống Pháp, cách đối nhân xử thế nhân nghĩa, khí khái,

thủy chung của các nhà nho yêu nớc. Tại Huế, Anh đợc học một số kiến

thức về tự nhiên và xã hội, bớc đầu tiếp xúc với nền văn minh phơng Tây,

gợi cho Anh những suy nghĩ về một hớng đi mới, khác với lớp cha anh.

Đây cũng là thời kỳ bọn thực dân Pháp ra sức đàn áp phong trào yêu

nớc để củng cố địa vị thống trị của chúng. Anh đợc thấy cảnh khổ ải, cùng

cực của dân phu làm con đờng Cửa Rào - Trấn Ninh; thấy đợc sự đối lập

giữa cuộc sống lao động chật vật, nghèo khó của nhân dân với cảnh sống xa

hoa, phè phỡn của bọn thực dân Pháp và quan lại Nam Triều. Anh đã tham gia

và chứng kiến cuộc biểu tình chống su thuế của nông dân miền Trung bị đàn

áp dã man. Sự thất bại của các phong trào yêu nớc đầu thế kỷ đã cho Anh

thấy: Muốn cứu đợc nớc, phải tìm ra một con đờng cách mạng mới.

Đất nớc, quê hơng và gia đình đã hình thành nên ở ngời thanh niên

Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nớc, có hoài bão cứu nớc,

nhân ái, thơng ngời, nhất là ngời nghèo khổ, thấu hiểu đợc sức mạnh của

ý chí độc lập tự cờng của dân tộc. Đợc quê hơng và gia đình trang bị cho

một vốn kiến thức uyên thâm về văn hóa phơng Đông, những kiến thức bớc

đầu về văn hóa phơng Tây, lại đợc rèn luyện trong cuộc sống lao động và



93



đấu tranh, mang nỗi đau của ngời dân mất nớc, với một ý chí nghị lực phi

thờng, Anh đã quyết tâm ra đi tìm đờng cứu nớc.

Có thể nói những phẩm chất và trí tuệ đợc hình thành trong thời kỳ

này là hành trang t tởng mà Nguyễn Tất Thành mang theo khi rời Tổ quốc

ra đi. Hành trang này cần đợc đánh giá chính xác và đầy đủ.

Trớc khi ra đi tìm đờng cứu nớc, ngoài ý chí và nghị lực, ớc mơ,

khát vọng và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ, trong hành trang của Nguyễn Tất

Thành đã hội tụ nhiều yếu tố, cho phép Anh có khả năng lựa chọn và kiểm

chứng con đờng cách mạng, con đờng giải phóng dân tộc đúng đắn, phù

hợp với xu thế vận động của thời đại.

Dễ nhận thấy nhất, là trong hành trang của Nguyễn Tất Thành đã có

đợc cái gốc rễ, mạch ngầm truyền thống: chủ nghĩa yêu nớc và chủ nghĩa

nhân ái Việt Nam. Là một ngời Việt Nam, qua quê hơng và gia đình Anh đã

tiếp nhận đợc tình cảm yêu nớc ngày càng đậm đà, bắt nguồn trớc hết từ

các huyền thoại, truyền thống lịch sử. Đó là ý thức bảo tồn, củng cố bản sắc

dân tộc, không để bị sáp nhập, "đồng hóa" bởi một nớc khác; là t tởng đại

đoàn kết dân tộc, "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cờng

bạo", t tởng yêu nớc đó còn gắn liền với quan niệm lấy dân làm gốc, lúc

hoạn nạn cũng nh khi thanh bình. Nguyễn Tất Thành đã thâu thái đợc

những nét nổi trội của chủ nghĩa yêu nớc truyền thống đó.

Mặt khác, từ lúc thiếu thời đến tuổi trởng thành, Nguyễn Tất Thành

đã đợc giáo dục và nuôi dỡng truyền thống nhân ái của dân tộc. Đó là

truyền thống nhân nghĩa, thơng ngời, thơng dân, vì dân, vì con ngời mà

sống và chiến đấu; là khát vọng có đợc một cuộc sống hòa bình, no ấm.

Chính chủ nghĩa yêu nớc dạt dào tình nhân ái của dân tộc đã đa Anh đến

với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là những hành trang cơ bản về t tởng trớc

khi Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng đi tìm đờng giải phóng dân tộc.

Nguyễn Tất Thành tiếp nhận chủ nghĩa yêu nớc và chủ nghĩa nhân ái

dân tộc qua nền quốc học Việt Nam. Theo Giáo s Trần Văn Giàu, nói quốc

học Việt Nam là nói cái dòng sông văn hóa trong đó. Quốc học bao gồm lịch

94



sử dân tộc, văn học nghệ thuật dân tộc, địa lý đất nớc nhà, phong tục, tín

ngỡng, t tởng của đồng bào... đợc lu truyền bằng những tài liệu thành

văn hoặc không thành văn, bằng chữ Hán hay bằng chữ Nôm, bằng sách vở

hay bằng đền đài di tích. Nó đợc đánh dấu bởi ba bộ phận: Sử, Văn, Triết bao

gồm t tởng, tín ngỡng, thuần phong mỹ tục. Nguyễn Tất Thành nổi tiếng

ham mê quốc sử, quốc văn. Anh thông thuộc lịch sử dân tộc, lại biết rất nhiều

văn học dân gian, thuộc các điệu hát dặm, hát ví, hát phờng vải. Tất cả những

di sản quý báu đó trong nền quốc học đã góp phần vào hành trang văn hóa cho

Nguyễn Tất Thành trớc khi rời Tổ quốc. Nguyễn Tất Thành xuất thân trong

một gia đình nhà Nho yêu nớc và vốn tri thức đầu tiên mà Anh có đợc là tri

thức Nho giáo thông qua sự dạy dỗ của ngời cha, ngời thầy giáo và qua con

đờng tự học, tự nghiên cứu. Trớc khi đi Tây Âu, Nguyễn Tất Thành đã có

đủ mời ba năm đèn sách, đã đạt trình độ uyên thâm về Nho học. Và cũng

chính vì không phải học để thi, nên Nguyễn Tất Thành học Nho một cách

phóng khoáng, sâu sắc. Sự hiểu biết rất sâu, rất rộng Nho giáo cho phép

Nguyễn Tất Thành phát huy những u điểm của nó nh đạo đức, nhân nghĩa,

trí dũng, cần kiệm liêm chính..., tránh đợc những nhợc điểm và sai lầm của

nó. Rất nhiều giáo huấn của Nho giáo đợc Anh chỉnh lại cho hợp với sự giáo

huấn cách mạng nh trung với nớc, hiếu với dân. Vốn Nho học uyên bác, sâu

rộng là một sự hợp thành trí tuệ của Nguyễn Tất Thành trớc khi đi Pháp.

Ngoài vốn Nho học, trong hành trang học vấn của Nguyễn Tất Thành

hồi đó còn có những hiểu biết nhất định ban đầu về nền văn hóa, văn minh, về

lịch sử cận đại Pháp. Hấp dẫn nhất đối với Nguyễn Tất Thành là lý tởng "Tự

do, Bình đẳng, Bác ái" mà cuộc cách mạng Pháp đã khai sinh. Những tri thức

mà Tất Thành có đợc về nền văn hóa Pháp là thời kỳ học ở trờng Pháp Việt, nhất là trờng Quốc học Huế. Thời đó Anh đã từng đọc các tác phẩm

của Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ... Hiểu biết ban đầu về văn minh Pháp cho

phép Tất Thành rút ra nhận xét: ở phơng Tây không phải tất cả mọi cái đều

xấu, có nhiều cái tốt có thể học đợc, tiếp thu để giúp đồng bào mình, và thôi

thúc Anh đi tới bến bờ xa lạ đó.



95



Sau này Nguyễn Tất Thành không ngừng làm giàu thêm trí tuệ của

mình, nhng những yếu tố vừa nêu là rất cần thiết để tạo nên hành trang t

tởng - văn hóa, cho phép Nguyễn Tất Thành có đợc suy nghĩ, t duy độc lập

trong việc lựa chọn hớng đi tìm đờng cứu nớc, vơn tới hệ t tởng tiên

tiến nhất của thời đại.

Việc Hồ Chí Minh lựa chọn con đờng sang Pháp cần phải đợc

nghiên cứu kỹ để thấy rõ sự đổi mới trong nhận thức lý luận của Ngời. Sau

khi rời Trờng Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đã nung nấu một hoài bão

tìm con đờng giải phóng cho dân tộc. Chính hoài bão này đã hình thành và

nuôi dỡng ý tởng hớng về nớc Pháp và các nớc Tây Âu. Theo Giáo s

Trần Văn Giàu, ý muốn đánh đuổi thực dân Pháp không phải chỉ là ý muốn

của Nguyễn Tất Thành hồi trẻ, mà là ý muốn của phần đông tuổi trẻ. Thanh

niên hoặc nô nức đi Đông du, sang Nhật, hoặc tham gia Đông kinh nghĩa thục

và Duy Tân hội, chỉ có một số rất ít hớng về Yên Thế. Cái đặc biệt của chàng

thanh niên Nguyễn Tất Thành là có sự so sánh lựa chọn giữa ba con đờng

cứu nớc đợc tiêu biểu bởi ba nhân vật lớn: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh

và Hoàng Hoa Thám. Hoàng Hoa Thám chủ trơng "thủ hiểm" lấy Yên Thế

làm căn cứ địa, chờ thời cơ thuận lợi hơn mà đánh đuổi Pháp bằng quân sự.

Phan Bội Châu chủ trơng dựa vào Nhật, học tập Nhật, xin viện trợ của ngời

"anh cả da vàng" để có thể vận động cuộc nổi dậy đánh đuổi Pháp bằng bạo

lực. Phan Chu Trinh không tin vào con đờng cách mạng bạo lực, mà chủ

trơng "ỷ Pháp cầu tiến", chống triều đình lạc hậu, yêu cầu cải cách chính trị,

phát triển văn hóa, kinh tế dần dần đến mức ngang với Pháp thì Pháp sẽ phải

công nhận tự chủ của Việt Nam, công nhận bình đẳng với Việt Nam. Cả ba

đờng lối cứu nớc đó đều đi đến bế tắc, đất nớc ta vẫn ở trong tình trạng

khủng hoảng đờng lối chính trị. Trong tình hình đó, Nguyễn Tất Thành muốn

tự mình tìm một con đờng cứu nớc mới, hớng về Pháp và các nớc Tây

Âu. Đó là suy nghĩ độc lập. Bởi lẽ, cũng nh một số trí thức thời đó, Nguyễn

Tất Thành đã nhận thức đợc rằng các nớc Tây Âu không phải là kẻ thù, có

thể học tập đợc ở họ nhiều điều. Tháng 6-1911, Nguyễn Tất Thành đã tâm



96



sự: "Tôi muốn đi ra ngoài, xem nớc Pháp và các nớc khác. Sau khi xem xét

họ làm nh thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta"(1). Và những hiểu

biết không nhiều thu nhận ở trờng Pháp - Việt về văn hóa, lịch sử cận đại

Pháp càng có tác dụng thúc đẩy Nguyễn Tất Thành đi Pháp, đi Tây Âu. Cuối

năm 1923, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn ái Quốc còn nhắc lại: "Khi tôi độ 13

tuổi, lần đầu tiên tôi đợc nghe ba chữ Pháp: Từ do, Bình đẳng, Bác ái... Và từ

thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những

gì ẩn đằng sau những từ ấy"(2).

Cũng theo Giáo s Trần Văn Giàu, "tìm hiểu xem đằng sau những từ

tự do, bình đẳng, bác ái, ẩn giấu những gì" có nghĩa là tìm hiểu các cuộc cách

mạng cận đại của phơng Tây, tìm hiểu lý do vì sao các nớc phơng Tây trở

nên phú cờng. "Trở về nớc giúp đồng bào mình", có nghĩa là khi đã học

đợc kinh nghiệm nớc ngoài, thì trở về góp phần góp sức cùng đồng bào

trong nớc làm cho dân tộc mình cũng tự do, bình đẳng, bác ái nh các nớc

châu Âu đã làm cách mạng. Tức là đi tìm đờng cứu nớc, tức là tìm một giải

pháp cho quê hơng để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Chỉ xét riêng trên

bình diện vừa nêu, ý tởng không đi sang Nhật mà lại hớng sang các nớc

Tây Âu của Nguyễn Tất Thành lúc đó quả là một chuyển biến t tởng hợp

thời đại. Lịch sử đặt ra yêu cầu mới và Nguyễn Tất Thành là ngời hiện thực

hóa nó, bằng t chất trí tuệ và mẫn cảm chính trị đặc biệt của mình.

2. Thời kỳ nghiên cứu, khảo sát thực tế và đến với chủ nghĩa Lênin

(1911 - 1920)

Để thực hiện hoài bão của mình, Anh đã đi và sống ở nhiều nớc thuộc

địa ở châu á, châu Phi, châu Mỹ Latinh, đã tận mắt thấy cuộc sống cùng cực,

bị bóc lột, bị đàn áp của các dân tộc thuộc địa và cũng đã trực tiếp tìm hiểu

đời sống của các nớc t bản phát triển, tự xng là văn minh. Đầu tiên, Anh

đã đến Pháp năm 1911, tiếp đó Anh đã sống ở Mỹ năm 1912 - 1913, ở Anh

(1) Trần Dân Tiên, Nhứng mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 13.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 1, tr. 477.



97



những năm 1913 - 1917 và lâu nhất là lần thứ hai, Anh trở lại Pháp, sống ở thủ

đô Pari, một trung tâm chính trị - văn hóa của Pháp và châu Âu, từ 1917 đến

1923. ở Pháp, Anh tham gia "Hội những ngời Việt Nam yêu nớc", vào

Đảng Xã hội Pháp - đảng của giai cấp công nhân Pháp lúc bấy giờ, Anh tiếp

xúc và là bạn của nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa nổi tiếng của

Pháp và châu Âu.

Năm 1919, Anh cùng với một số nhà yêu nớc Việt Nam thảo ra yêu

sách 8 điểm ký tên Nguyễn ái Quốc gửi Hội nghị Vécxay đòi quyền tự do dân

chủ cho ngời Việt Nam. Bản yêu sách không đợc Hội nghị xem xét đến

nhng đã gây một tiếng vang lớn trong phong trào giải phóng dân tộc và

phong trào cách mạng Việt Nam. Qua sự kiện này Anh càng thấy rõ trò bịp

bợm của chủ nghĩa Uynxơn và đi tới kết luận: các dân tộc muốn đợc giải

phóng chỉ có thể dựa vào sức của bản thân mình.

Thực tiễn sống, hoạt động và đấu tranh phong phú đó đã đa Anh đến

những nhận thức mới:

- ở các nớc thuộc địa, đâu đâu Anh cũng thấy ngời lao động bị chủ

nghĩa thực dân đế quốc đày ải trong tủi nhục, đói nghèo, bị bóc lột, đàn áp dã

man và ở đâu các dân tộc bị áp bức cũng đều có khát vọng đấu tranh đòi giải

phóng. ý thức quốc tế ở Anh đợc hình thành từ đó.

- ở các nớc t bản phát triển, tự xng là văn minh, Anh thấy cũng có

hai loại ngời: tầng lớp trên sống hết sức xa hoa, thừa thãi, còn đa số nhân dân

lao động phải sống cuộc đời nheo nhóc, bần hàn. Chính do sự thông cảm, yêu

thơng những ngời cùng khổ và lòng căm ghét bọn t bản, đế quốc, thực dân,

mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Anh từng bớc đợc nảy nở.

Nhờ những nhận thức rút ra từ thực tiễn gần mời năm lăn lộn tìm đờng

cứu nớc, nên vào năm 1920 khi đọc Luận cơng của Lênin về các vấn đề dân

tộc và vấn đề thuộc địa, đăng trên báo L'Humanité, Nguyễn ái Quốc tìm thấy

ở Luận cơng những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi mình

đang nung nấu và tìm tòi. Sau này, nói về cảm tởng khi đọc Luận cơng,



98



Ngời viết: "Luận cơng của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng

tỏ, tin tởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong

buồng mà tôi nói to lên nh đang nói trớc quần chúng đông đảo: "Hời đồng bào

bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đờng giải

phóng chúng ta""(1).

Có thể nói, đến đây Nguyễn ái Quốc đã tìm đợc con đờng cứu

nớc: con đờng giải phóng dân tộc gắn với cách mạng vô sản, đi theo con

đờng của cách mạng vô sản.

Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ 18 ở Tua, Ngời đã biểu quyết

đứng về phía Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

Nh vậy, trải qua 10 năm tìm đờng cứu nớc, Nguyễn ái Quốc đã

đến với chủ nghĩa Lênin, từ một thanh niên Việt Nam yêu nớc trở thành

ngời cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là một bớc nhảy vọt lớn trong cuộc

đời hoạt động cách mạng của Ngời, một sự chuyển biến về chất, kết hợp

nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nớc với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập

dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

3. Thời kỳ hình thành cơ bản t tởng về cách mạng Việt Nam

(1921 - 1930)

Thời kỳ này nổi lên mấy sự kiện lớn, cho thấy sự hoạt động lý luận

phong phú, đầy hiệu quả của Nguyễn ái Quốc.

- 1920 - 1923: Nguyễn ái Quốc hoạt động với cơng vị Trởng tiểu

ban Đông Dơng trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp,

tham dự Đại hội I và Đại hội II Đảng Cộng sản Pháp. Trong các Đại hội này,

Ngời đã phê bình Đảng Cộng sản Pháp cha quan tâm đúng mức đến vấn đề

thuộc địa.

Cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các thuộc địa Pháp,

Nguyễn ái Quốc thành lập "Hội liên hiệp thuộc địa" và xuất bản báo Le Paria

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr, 127.



99



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (527 trang)

×