Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.83 KB, 80 trang )
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, và các doanh nghiệp khác có nhu cầu lập
báo cáo tài chính giữa niên độ.
2.1.2Khái niệm về phân tích báo cáo tài chính
“Phân tích báo cáo tài chính là quá trình kiểm tra, xem xét, đối chiếu, so sánh các số
liệu về tài sản, công nợ, nguồn vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp.Thông qua
đó mà đánh giá được tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh, những nguyên
nhân ảnh hưởng và đưa ra những quyết định phù hợp với mục tiêu của từng đối
tượng.”3
“Phân tích báo cáo tài chính là làm cho các con số/dữ liệu trên báo cáo tài chính trở
nên “biết nói” theo mục đích của hoạt động phân tích”4
Phân tích báo cáo tài chính rất quan trọng trong việc đánh giá tình hình tài chính của
doanh nghiệp.Thông qua việc phân tích tài chính cho phép đánh giá được khái quát và
toàn diện các hoạt động của doanh nghiệp và những điểm mạnh, điểm yếu của doanh
nghiệp.Từ đó, các đối tượng quan tâm tới phân tích báo cáo tài chính như nhà đầu tư,
chủ nợ, nhà quản trị có thể đưa ra các quyết định tài chính.
2.1.3Mục đích phân tích báo cáo tài chính
Mục đích của phân tích báo cáo tài chính là nhằm cung cấp những thông tin, giúp cho
các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa
ra các quyết định hợp lý.
• Đối với nhà quản trị: giúp cho nhà quản trị dự báo tương lai và đưa ra những
hành động cần thiết để cải thiện tình hình hoạt động của công ty.
• Đối với nhà đầu tư: giúp cho nhà đầu tư dự báo triển vọng của công ty như điều
kiện tài chính, kết quả kinh doanh, khả năng sinh lời hiện tại và tương lai…
• Đối với chủ nợ: đảm bảo chắc chắn rằng các khoản vay có thể và sẽ được thanh
toán khi đến hạn và các khoản tiền lời mà họ nhận được.
2.1.4Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Báo cáo tài chính rất hữu ích đối việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn thông
tin tài chính chủ yếu đối với những người bên ngoài doanh nghiệp.Do đó, phân tích
báo cáo tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như nhà quản lý
doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho
3www.saovangdatviet.com.vn/index.php
4Theo bài giảng quản trị tài chính doanh nghiệp của NCS. Trần Thị Huế Chi
Page 6
vay tín dụng, các cơ quan chính phủ, người lao động...Mỗi nhóm người này có những
nhu cầu thông tin khác nhau.
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài chính
doanh nghiệp.Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước
pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối
tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà
tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công,
mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác
nhau.
2.2PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp
nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và
chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp,nhưng trên thực
tế người ta thường sử dụng phương phápso sánh.
Phương pháp so sánh là phương pháp phân tích được sử dụng phổ biến trong phân tích
kinh tế và tài chính.
Khi sử dụng phương pháp so sánh cần phải lưu ý một số điều như sau:
• Tiêu chuẩn để so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được lựa chọn làm kỳ gốc
• Các chỉ tiêu so sánh ( các trị số của chỉ tiêu so sánh) phải đảm bảo tính chất có
thể so sánh được với nhau.
• Khi tiến hành so sánh cần có hai đại lượng trở lên và các đại lượng phải đảm
bảo tính chất so sánh được.
Hình thức so sánh:
So sánh giữa số thực hiện kỳ này với mức bình quân ngành để thấy tình hình tài chính
doanh nghiệp tốt hay xấu, được hay chưa so với doanh nghiệp cùng ngành.
Page 7
So sánh theo chiều dọc là so sánh từng con số riêng biệt với một con số cụ thể trong
báo cáo tài chính. Sự so sánh được báo cáo bằng tỷ lệ phần trăm. Phương pháp này là
so sánh một số khoản mục với một khoản mục nhất định trong cùng một kỳ kế toán.
Giải thích về các phân tích theo chiều dọc của báo cáo kết quả kinh doanh và phân tích
theo chiều dọc của bảng cân đối kế toán được thể hiện như sau:
+Báo cáo Kết quả kinh doanh
Phân tích theo chiều dọc báo cáo kết quả kinh doanh liên quan đến việc so sánh từng
khoản mục trên báo cáo kết quả kinh doanh với Doanh thu. Mỗi mục sau đó được báo
cáo bằng một tỷ lệ phần trăm so với doanh thu. Ví dụ, nếu doanh thu là $10,000 và chi
phí hoạt động là $1.000 USD, thì chi phí hoạt động sẽ được báo bằng 10% doanh thu.
+Bảng cân đối kế toán
Phân tích theo chiều dọc bảng cân đối kế toán liên quan đến việc so sánh từng khoản
mục trên bảng cân đối kế toán với tổng tài sản. Mỗi khoản mục sau đó được báo cáo
theo một tỷ lệ phần trăm so với tổng tài sản. Ví dụ, nếu tiền mặt là $5,000 và tổng tài
sản là $25,000 USD, thì tiền mặt sẽ bằng 20% tổng tài sản.
So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến động cả về số tuyệt đối và tương đối
của các dữ kiện trên báo cáo tài chính qua nhiều kỳ kế toán khác nhau.
Quá trình so sánh giữa các chỉ tiêu được thể hiện dưới 2 kỹ thuật so sánh sau đây:
• So sánh số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích với kỳ
gốc của các chỉ tiêu phân tích.Kết quả so sánh phản ánh biến động về quy mô
của các chỉ tiêu phân tích
• So sánh số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân tích với
kỳ gốc của các chỉ tiêu phân tích.Kết quả so sánh phản ánh kết cấu, tốc độ phát
triển của chỉ tiêu nghiên cứu.
2.3PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TRONG DOANH
NGHIỆP
Page 8
2.3.1Phân tích tình hình tài sản và nguồn vốn
2.3.1.1 Đánh giá khái quát tình hình tài sản và nguồn vốn
-
-
So ánh tổng số tài sản cuối năm và đầu năm để đánh giá sự biến động về quy mô và tỷ
trọng của các bộ phận cấu thành tài sản (A,B tài sản) cuối năm và đầu năm để thấy
nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình trên.
So sánh tổng nguồn vốn cuối năm và đầu năm để đánh giá mức độ huy động vốn đảm
bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời so sánh giá trị và tỷ trọng của bộ
phận cấu thành nguồn vốn (A,B nguồn vốn) cuối năm và đầu năm để phát hiện
nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình trên.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự tăng giảm tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn thì chưa
thể thấy rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp được. Vì vậy cần phải phân tích mối
quan hệ giữa các khoản mục của bảng cân đối kế toán.
2.3.1.2 Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Theo quan điểm luân chuyên vốn thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp gồm Tài sản lưu
động và Tài sản cố định được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn của chủ sở hữu doanh
nghiệp. Quan hệ cân đối được thể hiện bằng công thức:
TSLĐ + TSCĐ = NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU
(Vế trái)
(Vế phải)
Nhưng quan hệ này chỉ mang tính lý thuyết, không thể nào nguồn vốn chủ sở hữu có
đầy đủ để trang trải cho các tài sản cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp, mà doanh nghiệp phải đi vay hoặc chiếm dụng vốn của đơn vị khác.
Trên thực tế, mối quan hệ này có thể xảy ra các trường hợp sau:
(1) VẾ BÊN TRÁI > VẾ BÊN PHẢI
Trường hợp này thể hiện doanh nghiệp bị thiếu nguồn vốn để trang trải tài sản nên để
quá trình kinh doanh không bị bế tắt, doanh nghiệp phải huy động thêm vốn từ các
khoản vay hoặc đi chiếm dụng vốn các đơn vị khác dưới hình thức mua trả chậm,
thanh toán chậm hơn so với thời hạn phải thanh toán (nhưng không vượt quá thời hạn
thanh toán).
(2) VẾ BÊN TRÁI < VẾ BÊN PHÀI
Trường hợp này nguồn vốn chủ sở hữu dư thừa để bù đắp cho tài sản, nên thường bị
các doanh nghiệp hoặc đối tượng khác chiếm dụng vốn dưới 2 hình thức bán chịu cho
bên mua thành phẩm, hàng hóa, dịch vụ… hoặc ứng trước tiền cho bên bán, tài sản sử
dụng để thế chấp, ký cược, ký quỹ,…
Page 9
Khi quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp, kế toán
trưởng và các đối tượng khác phải xem xét kết cấu vốn và nguồn vốn trên bảng cân đối
kế toán để từ đó có thể đối chiếu với yêu cầu kinh doanh hoặc khả năng huy động vốn,
đầu tư vốn… Để hiểu rõ hơn ta phân tích tiếp chỉ tiêu vốn luân lưu.
• Vốn luân lưu
Định nghĩa một cách tổng quát thì vốn luân lưu là khoản chênh lệch giữa sử dụng vốn
và nguồn vốn cùng thời gian sử dụng do các giao dịch tài chính trong kỳ kinh doanh
gây ra.
Nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng
trong một thời gian dài hơn một năm.Nguồn vốn dài hạn bao gồm nguôn vốn chủ sở
hữu và các khoản nợ dài hạn khác.
Khi vốn luân lưu dương cũng có nghĩa là tổng tài sản lưu động lớn hơn nợ
ngắn hạn. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, có thể
trang trải được các khoản nợ ngắn hạn với tài sản quay vòng nhanh.
Khi vốn luân lưu âm nghĩa là tài sản cố định lớn hơn nguồn vốn dài hạn.Điều
này khá nguy hiểm bởi khi hết hạn vay thì phải tìm ra nguồn vốn khác để thay
thế. Khi vốn luân lưu âm thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp là rất kém,
bởi vì chỉ có tài sản lưu động mới có thể chuyển thành tiền mặt trong thời gian
ngắn để tài trợ, trong khi đó tài sản lưu động lại nhỏ hơn nợ ngắn hạn.
Trong trường hợp vốn luân lưu bằng 0, nguồn vốn dài hạn vừa đủ để tài trợ
cho tài sản cố định, tài sản lưu động vừa đủ để thanh toán nợ ngắn hạn. Doanh
nghiệp đạt trạng thái CBTC trong dài hạn, tuy nhiên đây không phải là trạng
thái tốt nhất. Khi có một nghiệp vụ kinh tế phát sinh làm tăng nguồn vốn tạm
thời sẽ làm cho doanh nghiệp rơi vào trạng thái mất CBTC.(Ví dụ như các
khoản nợ dài hạn đến hạn trả).
2.3.2 Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tình hình và kết
quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với Nhà nước trong một kỳ kế toán.
Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra,
phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn,
doanh thu sản phẩm vật tư hàng hóa đã tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt
động khác và kết quả kinh doanh sau một kỳ kế toán.
Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để đánh giá xu hướng phát triển của
doanh nghiệp qua các kỳ khác nhau.
Page 10
Khi phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cần xem xét, xác định các vấn đề
cơ bản sau:
Thứ nhất: Xem xét sự biến động của từng chỉ tiêu trên phần lãi, lỗ giữa kỳ này với kỳ
trước (năm nay với năm trước). So sánh cả về số tuyệt đối và tương đối trên từng chỉ
tiêu giữa kỳ này với kỳ trước (năm nay với năm trước).Điều này sẽ có tác dụng rất lớn
nếu đi sâu xem xét những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của từng chỉ tiêu.
Thứ hai: Tính toán và phân tích các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng các khoản chi
phí, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng chi phí gồm:
Tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu thuần:
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng số doanh thu được, giá vốn hàng bán chiếm bao nhiêu
% hay cứ 100 đồng doanh thu thuần thu được doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng
giá vốn hàng bán. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ việc quản lý các khoản chi phí trong
giá vốn hàng bán càng tốt và ngược lại.
Tỷ lệ chi phí bán hàng trên doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thuần doanh nghiệp phải bỏ ra
bao nhiêu đồng chi phí bán hàng.Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ công tác bán hàng
càng có hiệu quả và ngược lại.
Tỷ lệ chi phí quản lý doanh nghiệp trên doanh thu thuần:
Chỉ tiêu này cho biết đã thu được 100 đồng doanh thu thuần doanh nghiệp phải chi bao
nhiêu chi phí quản lý.Tỉ lệ chi phí quản lý doanh nghiệp trên doanh thu thuần càng nhỏ
chứng tỏ hiệu quả quản lý càng cao và ngược lại.
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh:
Ngoài các chỉ tiêu thể hiện ngay trong báo cáo kết quả kinh doanh như: tổng doanh
thu, doanh thu thuần, lợi nhuận gộp, lợi nhuận thuần, lợi nhuận sau thuế cần tính toán
và phân tích các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cho biết cứ 100
đồng doanh thu thuần sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận gộp.
Page 11
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó biểu hiện
cứ 100 đồng doanh thu thuần sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh nó biểu hiện: cứ
100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Thực chất của việc tính toán nhóm các chỉ tiêu trên là việc xác định tỷ lệ từng chỉ tiêu
trên báo cáo kết quả kinh doanh so với tổng thể là doanh thu thuần. Có nghĩa là tổng
doanh thu thuần làm tổng thể quy mô chung, còn những chỉ tiêu khác trên báo cáo kết
quả kinh doanh là tỷ trọng từng phần trong quy mô chung đó.
2.4PHÂN TÍCH CÁC TỶ SỐ TÀI CHÍNH
2.4.1Nhóm tỷ số thanh toán
Tỷ số thanh toán là tỷ số đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty.Dữ
liệu để phân tích tỷ số này là từ bảng cân đối kế toán.Đứng trên góc độ ngân hàng, hai
tỷ số này rất quan trọng vì nó giúp chúng ta đánh giá được khả năng thanh tóan nợ của
công ty.
Tỷ số thanh toán bao gồm 2 loại:
2.4.1.1Tỷ số thanh toán hiện thời:
Tỷ số thanh khoản hiện thời (hay Tỷ số thanh khoản ngắn hạn, Hệ số thanh toán ngắn
hạn, Hệ số thanh toán hiện hành, Hệ số khả năng thanh toán của vốn lưu động) là một
tỷ số tài chính dùng để đo lường năng lực thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. 5
• Giá trị tài sản lưu động: tiền,chứng khoán ngắn hạn, khoản phải thu và hàng tồn
kho và các tài sản ngắn hạn khác.
• Giá trị nợ ngắn hạn: khoản phải trả người bán, nợ ngắn hạn ngân hàng, nợ dài
hạn đến hạn trả, phải trả thuế và các khoản chi phí phải trả ngắn hạn khác.
5vi.wikipedia.org/wiki/Tỷ_số_thanh_khoản_hiện_thời
Page 12
Nếu tỷ sốnày >1 quá nhiều thể hiện khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp
trong tình trạng tốt.
Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 quá nhiều thì có nghĩa là doanh nghiệp không đủ tài sản có
thể sử dụng ngay để thanh toán khoản nợ ngắn hạn sắp đáo hạn.
Nếu tỷ số này quá cao thì lại là một biểu hiện không tốt do việc tài sản ngắn hạn quá
nhiều(tiền mặt, khoản phải thu, hàng tồn kho...) ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của
công ty.
Khi giá trị của tỷ số này giảm có nghĩa là khả năng trả nợ của doanh nghiệp giảm và
cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm tàng và ngược lại.
2.4.1.2 Tỷ số thanh toán nhanh:
Tỷ số thanh khoản nhanh (hay Hệ số khả năng thanh toán nhanh, Hệ số khả năng
thanh toán tức thời, Hệ số thanh toán tức thời, Hệ số thử axit) là một tỷ số tài chính
dùng nhằm đo khả năng huy động tài sản lưu động của một doanh nghiệp để thanh
toán ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp này.6
Do hàng tồn kho ( Dự trữ ) là các tài sản có tính thanh khoản thấp nhất trong tổng tài
sản lưu động, mất nhiều thời gian và dễ bị lỗ nhất khi bán nên không được tính vào tỷ
số thanh toán nhanh.
Nếu hệ số thanh toán nhanh lớn hơn 1, công ty có đủ khả năng sử dụng tài sản thanh
toán nhanh để chi trả mà không cần thanh lý hàng tồn kho.
Nếu hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn 1, tài chính của doanh nghiệp đang trong tình
trạng suy yếu nghiêm trọng, có khả năng công ty sẽ không đủ khả năng thanh toán
ngay lập tức toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn.
Nếu hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn hệ số thanh toán ngay rất nhiều chứng tỏ tài sản
ngắn hạn phụ thuộc rất lớn vào hàng tồn kho. Trong trường hợp này tính thanh khoản
của tài sản ngắn hạn là tương đối thấp.
Nếu hệ số này quá lớn lại gây tình trạng mất cân đối của vốn lưu động, tập trung quá
nhiều vào vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn hoặc các khoản phải thu…có thể không hiệu
quả.
6vi.wikipedia.org/wiki/Tỷ_số_thanh_khoản_nhanh
Page 13
Tỷ số thanh toán nhanh thấp hơn năm trước có nghĩa là những thay đổi về chính sách
tín dụng và cơ cấu tài trợ đã làm khả năng thanh toán của doanh nghiệp yếu đi, và
ngược lại.
2.4.1.3 Tỷ số thanh toán nhanh bằng tiền mặt
Đây là tỷ số cho biết khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Khác với tỷ số thanh toán nhanh, tỷ số này loại bỏ hàng tồn kho, khoản phải thu ra
khỏi công thức tính toán và cho cái nhìn “bảo thủ” hơn, vì tiền và tương đương tiền là
những tài sản có mức thanh khoản cao nhất.
2.4.2Nhóm tỷ số hoạt động
Là nhóm tỷ số đo lường hiệu quả quản lý tài sản của công ty.
2.4.2.1Tỷ số hoạt động tồn kho
• Doanh thu thuần: doanh số của toàn bộ hàng hoá tiêu thụ trong kỳ không phân
biệt đã thu tiền hay chưa, trừ đi phần hoa hồng chiết khấu, giảm giá hay hàng
hoá bị trả lại.
• Giá trị hàng tồn kho: các loại nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm,
vật liệu phụ còn tồn trong kho.Trong đó giá trị hàng tồn kho bình quân bằng
trung bình cộng giá trị đầu và cuối kỳ.
Nếu mức quay vòng hàng tồn kho quá thấp, chứng tỏ lượng hàng tồn quá mức,sản
phẩm bị tích đọng hoặc tiêu thụ không tốt sẽ là một biểu hiện xấu trong kinh doanh.
Việc giữ nhiều hàng tồn kho sẽ dẫn đến số ngày tồn kho của công ty sẽ cao.Điều này
phản ánh qua chỉ tiêu số ngày tồn kho.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh
và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều.Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu
khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm qua các năm.
Page 14
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng dự trữ
trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả năng doanh
nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần.Hơn nữa, dự trữ
nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền
sản xuất bị ngưng trệ.Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm
bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
2.4.2.2Kỳ thu tiền bình quân
Tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả và chất lượng quản lý khoản phải thu. “Tỷ số
này cho biết doanh nghiệp mất bình quân bao nhiêu ngày để thu hồi các khoản phải
thu của mình”.7
Kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc
chắn mà còn phải xem xét chính sách của doanh nghiệp như mở rộng thị trường, chính
sách tín dụng…
Kỳ thu tiền bình quân thấp có thể là biểu hiện của chính sách tín dụng quá chặt chẽ.
Lúc này, khoản phải thu có thể có chất lượng nhưng doanh số có thể bị giảm mạnh và
lợi nhuận có thể thấp hơn mức đáng ra phải được do chính sách tín dụng quá chặt chẽ.
Trong tình huống này, có lẽ công ty nên nới lỏng các tiêu chuẩn tín dụng.
2.4.2.3Vòng quay tài sản cố định
Tỷ số này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản cố định như mày móc, thiết bị và nhà
xưởng.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ của ngành mang lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Chỉ tiêu này càng cao cho thấy hiệu quả hoạt động của tài sản cố định của ngành càng
lớn.
2.4.2.4Vòng quay tổng tài sản
Tỷ số này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản nói chung mà không phân biệt tài sản lưu
động hay tài sản cố định.
7vi.wikipedia.org/wiki/Kỳ_thu_tiền_bình_quân
Page 15
Chỉ số này giúp đánh giá hiệu quả sử dụng của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, cho
thấy 1 đồng tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu.
Tổng tài sản trong công thức là số bình quân, tức lấy tổng số dư đầu kỳ cộng với số dư
cuối kỳ sau đó chia 2.
Chỉ số này càng cao cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp càng cao và
ngược lại.
2.4.3Tỷ số cơ cấu tài chính (Đòn bẩy tài chính)
2.4.3.1 Tỷ số nợ trên tổng tài sản
“Tỷ số nợ trên tổng tài sảnlà một tỷ số tài chính đo lường năng lực sử dụng và quản lý
nợ của doanh nghiệp”.8
Tỷ số này cho biết có bao nhiêu phần trăm tài sản của doanh nghiệp là từ đi vay. Qua
đây biết được khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp.Tỷ số này mà quá nhỏ,
chứng tỏ doanh nghiệp vay ít.Điều này có thể hàm ý doanh nghiệp có khả năng tự chủ
tài chính cao.Song nó cũng có thể hàm ý là doanh nghiệp chưa biết khai thác đòn bẩy
tài chính, tức là chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi vay.Ngược lại, tỷ số
này mà cao quá hàm ý doanh nghiệp không có thực lực tài chính mà chủ yếu đi vay để
có vốn kinh doanh.Điều này cũng hàm ý là mức độ rủi ro của doanh nghiệp cao hơn.
2.4.3.2Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu là một tỷ số tài chính đo lường năng lực sử dụng và quản
lý nợ của doanh nghiệp.
Tỷ số này cho biết quan hệ giữa vốn huy động bằng đi vay và vốn chủ sở hữu.Tỷ số
này nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp ít phụ thuộc vào hình thức huy động vốn bằng vay nợ;
có thể hàm ý doanh nghiệp chịu độ rủi ro thấp.Tuy nhiên, nó cũng có thể chứng tỏ
doanh nghiệp chưa biết cách vay nợ để kinh doanh và khai thác lợi ích của hiệu quả
tiết kiệm thuế.
8vi.wikipedia.org/wiki/Tỷ_số_nợ_trên_tài_sản
Page 16