Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 70 trang )
-5-
đảm đời sống thủy sinh). Điều này cũng hướng việc sử dụng TNN tới các hoạt
động có giá trị lợi nhuận cao nhất;
Có khả năng dự báo về kết quả của phương án phân bổ để phương án phân
bổ tốt nhất có thể đem lại giá trị vật chất thực tế và giảm thiểu sự không chắc
chắn;
Có tính công bằng trong phương án phân bổ thể hiện ở chỗ bất cứ người
nào muốn dùng nước cũng đều có thể có cơ hội kiếm được lợi nhuận như nhau
từ việc sử dụng nước;
Sự chấp nhận của xã hội để phương án phân bổ đạt được các giá trị và
mục tiêu đã đề ra và vì thế được chấp nhận bởi các nhóm lợi ích khác nhau
trongxã hội;
Có tính hiệu quả để phương án phân bổ làm thay đổi tình trạng hiện tại
như suy thoái NDĐ hay ô nhiễm nước, và vì thế hướng tới mục tiêu chính sách
mong muốn;
Có tính bền vững và khả thi về hành chính để có thể thực hiện cơ chế
phânbổ và cho phép tác động của chính sách luôn được duy trì và phát huy.
Tại một số quốc gia, kinh nghiệm đề xuất các phương pháp, cơ chế phân
bổ chia sẻ nguồn nước như sau:
Cơ chế phân bổ trên cơ sở chi phí giá thành: Kinh nghiệm điển hình
của loại này là ở Pháp với việc thiết kế giá bán nước xuất phát từ mục tiêu mà
giá bán phải phản ánh được là: Trong thời kỳ căng thẳng, giá bán nước bao gồm
cả chi phí vận hành cộng với chi phí đầu tư công trình dài hạn; Trong thời kỳ
không căng thẳng, giá bán nước chỉ tính theo chi phí vận hành; Tiết kiệm
lượng nước sử dụng bằng hình thức thu phí môi trường;
Cơ chế điều tiết thông qua thị trường mua bán nước: Kinh nghiệm điển
hình của lọai này có thể thấy ở thị trường mua bán nước ở Chi Lê; ở Ngân hàng
trao đổi nước khi hạn hán ở California (Mỹ); ở Thị trường trao đổi mua bán nước
ngầm ở Ấn Độ; và việc chuyển nước tại các tiểu bang Niu-Sao-Oel, Nam Úc,
Queensland, Victoria của Úc. Hình thức thị trường mua bán nước, chuyển nước
vừa có mặt lợi, vừa có mặt bất lợi. Chẳng hạn như đối với vùng mua nước, các
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
-6-
lợi ích bao gồm làm tăng thu nhập của người dân, bảo vệ môi trường sinh thái,
khôi phục và bảo vệ nguồn nước dưới đất; tuy nhiên, đối với vùng bán nước, việc
bán nước cũng có một số hậu quả như làm xói mòn đất và tăng lượng người thất
nghiệp
Cơ chế phân bổ trên cơ sở nhu cầu người sử dụng: Cơ chế phân bổ
trên cơ sở nhu cầu của người sử dụng thường được áp dụng trong Hợp tác xã
dùng nước hay các Hội dùng nước. Đây là một hình thức có thể thấy ở nhiều nơi
trên thế giới như bang Utah của Mỹ, vùng Tamil Nadu của Ấn Độ, v.v. Các
HTX dùng nước được hình thành trên cơ sở tự nguyện của những người có nhu
cầu dùng nước. Họ cùng nhau đầu tư xây dựng công trình và tự quản lý, phân bổ
nước theo nhu cầu của các thành viên trên cơ sở mức đóng góp đầu tư xây dựng
công trình. Hình thức này có ưu điểm là sử dụng nước có hiệu quả và tránh được
xung đột về sử dụng nguồn nước. Tuy nhiên, các Hợp tác xác dùng nước không
có khả năng đầu tư xây dựng các công trình hồ, đập có quy mô lớn.
Cơ chế phân bổ trên cơ sở khả năng của nguồn nước: Điển hình của
phương pháp pháp bổ này là kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc quản lý lưu
vực sông Hoàng Hà. Theo đó, Ủy ban Bảo vệ Sông Hoàng Hà (YRCC) quản
lý, vận hành trực tiếp các vị trí lấy nước và các hồ chứa quan trọng và phân bổ
nguồn nước cho các địa phương trên cơ sở khả năng của nguồn nước, với việc
phân cấp quản lý và chia sẻ trách nhiệm. Cụ thể là, Ủy ban YRCC cấp phép
lượng nước cho mỗi tỉnh hoặc khu tự trị và kiểm tra lưu lượng nước tại ranh giới
các tỉnh. Chính quyền của tỉnh có trách nhiệm đối với lượng nước được phân bổ
và sử dụng lượng nước đó theo quy định của địa phương mình. Lượng nước phân
bổ cho mỗi tỉnh được điều chỉnh tăng hoặc giảm một trong các tỷ lệ với tổng lưu
lượng dòng chảy tự nhiên được dự báo. Lượng nước tăng thêm hay giảm đi của
mỗi tỉnh đó lại được Ủy ban YRCC kiểm soát qua lưu lượng nước sông tại các
vị trí ở ranh giới các tỉnh. Ủy ban YRCC xây dựng kế hoạch và thực hiện kế
hoạch phân bổ hàng năm và hàng tháng.
Phương pháp phân bổ này có sự can thiệp của Nhà nước và cộng đồng
thông qua một ủy ban bảo vệ lưu vực sông và mang tính công bằng đối với các
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
-7-
địa phương. Trong tình huống thiếu nước các địa phương đều phải chịu rủi ro
như nhau và phải chủ động điều chỉnh nhu cầu nước của mình. Việc giám sát
chặt chẽ nguồn nước tại các vị trí thuộc ranh giới vào ra của con sông chảy qua
các tỉnh là một kinh nghiệm tốt có thể áp dụng đối với các lưu vực sông liên tỉnh
ở Việt Nam.
1.2 Tình hình phân bổ tài nguyên nước tại Việt Nam
Ở trong nước, đã có một số nghiên cứu về phân bổ nguồn nước trên cơ sở
hiệu ích kinh tế sử dụng nước. Các nghiên cứu này sử dụng công cụ mô hình
GAMS để phân tích các phương án phân bổ nước tối ưu cho các lưu vực sông
Đồng Nai, sông Hồng... Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, kết quả của các nghiên
cứu này vẫn chưa được pháp quy hóa và chưa được ứng dụng trong thực tế.
Các dự án phát triển nguồn nước những năm 80 chủ yếu của Viện Quy
hoạch thủy lợi dưới dạng các dự án quy hoạch chuyên ngành có liên quan đến
nguồn nước với các tên gọi như quy hoạch thủy lợi; quy hoạch tưới, tiêu; quy
hoạch sử dụng tổng hợp nguồn nước và bảo vệ môi trường, thời kỳ đó việc tính
toán cân bằng nước chủ yếu áp dụng công cụ mô hình MITSIM chạy trên môi
trường DOS. Sau những năm 2000 đặc biệt là sau năm 2002 với sự hỗ trợ nguồn
lực và công nghệ từ các tổ chức nước ngoài, tiêu biểu nhất là tổ chức DANIDA
của Đan Mạch đã hợp tác hỗ trợ thực hiện dự án “Tăng cường năng lực các viện
ngành nước” và đưa bộ công cụ mô hình MIKE do DHI (viện thủy lực Đan
Mạch) phát triển vào ứng dụng rộng rãi và mạnh mẽ ở Việt Nam, từ đó việc tính
toán cân bằng nước ngoài cơ quan đầu mối là Viện Quy hoạch Thủy lợi với kinh
nghiệm và thực tiễn sử dụng mô hình MITSIM cùng với “người dùng mới” từ
các cơ quan thuộc Viện Khoa học Thủy lợi (nay là Viện nghiên cứu Thủy lợi);
các trường Trường Đại học (tiêu biểu là Đại học Thủy lợi); các Viện nghiên cứu
…vv đã bắt đầu tiếp cận ứng dụng mô hình MIKE BASIN.
Gần đây, tham gia vào việc tính toán cân bằng nước trên các lưu vực sông
ở Việt Nam ngoài việc ứng dụng mô hình MITSIM (đã được cải tiến chạy trên
môi trường for Window), mô hình WEAP, mô hình IQQM (tích hợp trong bộ
MRC Toolbox của Ủy hội sông Mêkong quốc tế) thì còn có thêm mô hình
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
-8-
MIKE BASIN (do Viện Thuỷ lực Đan Mạch – DHI xây dựng) tham gia vào việc
tính toán cân bằng, phân bổ nguồn nước và lập kế hoạch sử dụng nước.
1.3 Tổng quan vùng nghiên cứu
1.3.1 Vị trí địa lý
Hệ thống sông Trà Khúc là hệ thống sông lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi, có
diện tích lưu vực 3.240 km2, chiếm khoảng 55% diện tích tự nhiên của tỉnh. Lưu
vực sông nằm trên địa bàn các huyện Sơn Hà, Sơn Tây, Trà Bồng, Ba Tơ, Sơn
Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, TP. Quảng Ngãi, một phần diện tích thuộc các
huyện Bình Sơn, Mộ Đức, Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi và một phần huyện
Kon Plong tỉnh Kon Tum.
Vùng nghiên cứu có tọa độ địa lý:
− 140 35’ đến 150 25’ Vĩ độ Bắc;
− 1080 15’ đến 1090 0’ Kinh độ Đông.
Ranh giới vùng nghiên cứu:
− Phía Bắc giáp lưu vực sông Trà Bồng;
− Phía Nam giáp lưu vực sông Vệ;
− Phía Tây giáp lưu vực sông Sê San;
− Phía Đông giáp biển Đông.
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
-9-
Hình 1.1:
Bản đồ lưu vực sông Trà Khúc
1.3.2 Đặc điểm địa hình
- Sông Trà Khúc bắt nguồn từ vùng núi cao huyện Kon Plong tỉnh Kon
Tum, có độ cao 1300m - 1500m. Phần thượng lưu sông chảy theo hướng Bắc Nam, phần hạ lưu chảy theo hướng Tây - Đông, đổ ra biển qua cửa Cổ Lũy.
- Nhìn chung địa hình của lưu vực theo xu thế thấp dần từ Tây sang Đông,
giữa vùng núi và vùng đồng bằng địa hình thay đổi đáng kể, hình thành hai bậc
địa hình cao và thấp nằm kế tiếp nhau, hầu như không có khu đệm chuyển tiếp.
- Toàn lưu vực có thể chia thành hai loại địa hình:
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
- 10 -
* Địa hình vùng núi cao: Là các vùng đất từ thượng nguồn về tới đập
Thạch Nham, đất đai đa phần là đồi núi, thuộc phía tây của lưu vực đồng thời
cũng là phía tây của tỉnh Quảng Ngãi. Vùng có độ cao trung bình 600m – 700m,
thượng nguồn có các đỉnh núi cao 1200 – 1500 m, thấp dần về phía hạ lưu, tiếp
giáp với đồng bằng là các đỉnh núi thấp có cao độ từ 200m – 250m như núi
Vách Đá, núi Lin, núi Đá Lơ….Trong khu vực địa hình này diện tích rừng còn
nhiều, độ dốc lớn và địa hình chia cắt mạnh. Dạng địa hình này thuộc các huyện
Sơn Tây, Sơn Hà, Trà Bồng, Ba Tơ của tỉnh Quảng Ngãi và huyện Kon Plong
của Kon Tum. Đất canh tác trong vùng chủ yếu tập trung ở thị trấn Sơn Hà và
ven hai bên sông Trà Khúc, sông Đăk Đrinh, sông Re.
* Địa hình vùng đồng bằng: Dạng địa hình vùng đồng bằng nằm ở phía
đông vùng nghiên cứu, chiếm khoảng 30% diện tích tự nhiên toàn lưu vực. Đây
là vùng đất tương đối bằng phẳng, có cao độ từ 2m – 20m, nằm trên địa bàn các
huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Bình Sơn và Mộ Đức, ở dạng địa hình
này có diện tích canh tác lớn và thích hợp cho trồng lúa, hoa màu và cây công
nghiệp ngắn ngày.
1.3.3 Đặc điểm địa chất
Theo một số tài liệu thu thập được, lãnh thổ Quảng Ngãi nằm trên đới cấu
tạo Kon Tum, gồm hai loại chính:
- Khối mac ma axit, điển hình là đá granit, thành phần chủ yếu là thạch
anh, ngoài ra có mica. Đất hình thành trên đá granit thường có thành phần cơ
giới nhẹ.
- Đá trầm tích thuộc dạng sa thạch, phiến thạch và phiến sa. Đất hình
thành trên sa thạch, kết cấu thường rời rạc, giữ nước kém.
1.3.4 Đặc điểm thổ nhưỡng
- Đất vùng núi nói chung rất dốc, những vùng còn cây cối có lớp màu khá
dày do tích tụ lá cây qua nhiều năm. Đất vùng thung lũng hình thành trong quá
trình bào mòn từ núi xuống, những chỗ có nước đất thường bị lầy và chua.
- Đất vùng đồi gò bị bào mòn, bạc màu, tầng đất canh tác mỏng chủ yếu
tập trung trong các huyện: Sơn Hà, Sơn Tây, Nghĩa hành và Minh Long.
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
- 11 -
- Vùng đồng bằng chủ yếu là đất phù sa, hàm lượng NPK khá, đây là
nhóm đất màu mỡ được hình thành do tích tụ phù sa của các sông rất thích hợp
với các loại cây lương thực và hoa màu. Loại đất này được phân bố rộng rãi ở hạ
lưu sông Trà Bồng, Trà Khúc và Sông Vệ trong phạm vi các huyện: Bình Sơn,
Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ và TP. Quảng Ngãi.
- Đất cát ven biển phần lớn là đất cát rời rạc, dinh dưỡng kém.
1.3.5 Đặc điểm thảm phủ thực vật
Thảm phủ thực vật có tác dụng quan trọng trong việc điều hòa khí hậu và
điều tiết dòng chảy. Đặc biệt rừng có tác dụng làm giảm dòng chảy lũ và tăng
lượng dòng chảy mùa kiệt.
Rừng ở Quảng Ngãi tuy ít so với cả nước, chủ yếu là rừng nghèo và rừng
trung bình nhưng trữ lượng rừng rất phong phú và có nhiều loại gỗ quý như gõ,
sơn, dổi, và có nhiều quế … như ở Minh Long, Ba Tơ, Sơn Tây, Sơn Hà.
Rừng trong lưu vực chủ yếu tập trung ở vùng thượng nguồn trên các vùng
núi cao, độ dốc lớn (50 - 300). Việc trồng cây gây rừng vẫn chưa hàn gắn được
những tổn thất về rừng trong thời kỳ chiến tranh và hậu quả của việc khai thác
bừa bãi, chưa hợp lý và tệ chặt phá rừng lấy gỗ và làm nương rẫy. Hiện nay có
xu thế giảm rừng giàu và trung bình, tăng diện tích rừng nghèo. Độ che phủ của
rừng thấp làm cho xói mòn đất, suy thoái nguồn nước làm cho tình hình lũ lụt
hạn hán ngày càng gia tăng.
1.3.6 Đặc điểm mạng lưới sông ngòi
Sông Trà Khúc bắt nguồn từ vùng núi cao Kon Plong tỉnh Kon Tum ở độ
cao 1500m. Phần thượng nguồn sông chảy theo hướng Nam - Bắc, đến Thạch
Nham chảy theo hướng Tây - Đông, đổ ra biển qua cửa Cổ Lũy. Sông có chiều
dài 135 km, diện tích lưu vực 3240 km2, diện tích tính đến Thạch Nham 2840
km2, mật độ lưới sông 0,39 km/km2, độ cao bình quân lưu vực 550m, chiều dài
lưu vực 123 km, chiều rộng trung bình lưu vực 26,3 km, độ dốc bình quân lưu
vực 18,5%. Với chiều dài sông 135 km, khoảng 2/3 chảy trong vùng núi cao có
cao độ từ 200 -1000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
- 12 -
Mạng sông trong lưu vực có dạng cành cây. Ngoài dòng chính ra sông có
các phụ lưu sau :
- Nhánh Đăk Đrinh: chảy trong vùng núi phía Tây của tỉnh ở độ cao
1100m, hợp lưu với dòng chính tại Tay On, có chiều dài 19 km,diện tích lưu vực
745 km2.
- Nhánh Đak se Lô: bắt nguồn từ vùng núi cao phía Nam của tỉnh, có
chiều dài 65 km và diện tích lưu vực 530 km2.
- Nhánh sông Re: bắt nguồn từ vùng núi cao phía Tây Nam huyện Ba Tơ
ở độ cao 800m, sông có chiều dài 82 km với diện tích lưu vực 786 km2.
- Sông Nước Trong: bắt nguồn từ vùng núi huyện Trà Bồng ở độ cao
500m, có chiều dài 46 km, diện tích lưu vực 485 km2.
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
- 13 -
CHƯƠNG II:
NHU CẦU KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN
NƯỚC MẶT GIAI ĐOẠN HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI (NĂM 2020)
TRÊN LƯU VỰC SÔNG TRÀ KHÚC
2.1 Đặc điểm khí tượng, thủy văn
2.1.1 Mạng lưới các trạm quan trắc khí tượng, thủy văn
a)
Trạm khí tượng
Trong vùng nghiên cứu có các trạm đo khí tượng Quảng Ngãi, Ba Tơ và 7
trạm đo mưa khác.
b)
Trạm thủy văn
Trên sông Trà Khúc có 3 trạm đo thủy văn, trạm Sơn Giang đo các yếu tố
lưu lượng, mực nước, mưa, độ đục, trạm Trà Khúc đo mực nước, gần đây tại ví
trí đập Thạch Nham cũng tiến hành đo các yếu tố lưu lượng, mực nước.
c)
Trạm đo mưa
Ngoài các trạm khí tượng, trong và lân cận lưu vực có 1 mạng lưới các
trạm đo mưa với liệt thời gian đo tương đối dài (trên 20 năm).
2.1.2 Đặc điểm khí tượng
a)
Chế độ nhiệt
Trong vùng nghiên cứu có chế độ bức xạ mặt trời nhiệt đới với cán cân
bức xạ dương, dẫn đến một nền nhiệt độ cao cho vùng. Nhiệt độ trong vùng có
xu hướng thay đổi theo độ cao, các vùng núi cao nhiệt độ thấp hơn vùng đồng
bằng. Vùng đồng bằng có nhiệt độ trung bình 250C – 260C, tương đương với
tổng nhiệt độ năm 9000 – 95000C. Vùng núi có nhiệt độ trung bình 240C–250C,
tương đương tổng nhiệt độ năm 8700 – 90000C.
Bảng 2.1: Nhiệt độ trung bình tháng, năm tại các trạm (0C)
Tháng
Ba Tơ
Quảng Ngãi
b)
I
II
III
IV
V
VI VII VIII IX
X
XI XII
21.4 22.7 24.6 26.8 27.7 28.1 28.0 27.8 26.5 25.1 23.5 21.6
21.7 22.5 24.4 26.7 28.3 28.8 28.7 28.6 27.1 25.8 24.1 22.0
Năm
25.3
25.7
Độ ẩm
Độ ẩm tương đối trung bình nhiều năm trong vùng khoảng 85%. Vào các
tháng mùa mưa độ ẩm không khí vùng đồng bằng ven biển đạt 85- 88%, vùng
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước
- 14 -
núi có thể đạt 90- 95%. Các tháng mùa khô độ ẩm thấp hơn, vùng đồng bằng
ven biển dưới 80%, vùng núi 80- 85%.
Vào những tháng mùa khô, trong một vài ngày cá biệt độ ẩm có thể xuống
dưới 30 - 40%.
Bảng 2.2: Độ ẩm trung bình tháng, năm tại các trạm (%)
Tháng
Ba Tơ
Quảng Ngãi
c)
I
88
88
II
87
87
III
84
86
IV
82
84
V
83
82
VI
81
81
VII VIII IX
80 80 86
80 80 85
X
89
88
XI
90
89
XII
90
89
Năm
85
85
Số giờ nắng
Vùng có số giờ nắng rất phong phú, vùng núi ít nắng cũng đạt khoảng
2000 giờ/năm, vùng đồng bằng nắng nhiều hơn khoảng 2200 giờ/năm. Tháng có
số giờ nắng lớn vào các tháng IV và tháng V, trung bình từ 8 - 9 giờ/ngày ở
vùng đồng bằng (TP. Quảng Ngãi) và 7 - 8 giờ/ngày ở vùng núi (Ba Tơ). Tháng
nắng ít là tháng XII, ở TP. Quảng Ngãi chỉ đạt 3,5 giờ/ngày và Ba Tơ chỉ đạt 2,4
giờ/ngày.
Bảng 2.3: Số giờ nắng bình quân tháng, năm tại các trạm (giờ)
Tháng
Ba Tơ
Quảng Ngãi
d)
I
II
III
IV
V
VI
VII VIII IX
X
XI
XII
114.2 154.6 205.5 215.6 222.6 210.1 222.3 201.8 166.9 132.2 91.5 71.1
130.2 154.7 210.9 224.1 250.5 229.8 240.5 225.2 183.2 155.8 111.3 84.6
Năm
2008
2200
Bốc hơi
Nhìn chung lượng bốc hơi trong tỉnh không lớn so với các vùng khác
trong nước. Vùng đồng bằng ven biển có khả năng bốc hơi từ 800 - 900
mm/năm, càng lên cao khả năng bốc hơi càng giảm, chỉ từ 750- 800 mm/năm.
Bảng 2.4: Lượng bốc hơi ống pitch trung bình tháng, năm (mm)
Tháng
Ba Tơ
Quảng Ngãi
e)
I
II
III IV
V
VI
VII VIII
43.3 50.7 75.1 86.6 87.0 96.2 101.8 97.1
52.9 54.9 73.9 83.6 94.6 94.9 103.9 96.1
IX
61.1
68.6
X
XI XII
44.3 35.8 33.6
69.1 50.1 47.8
Năm
812.7
890.5
Chế độ mưa
Nhìn chung trong lưu vực lượng mưa có xu hướng giảm dần từ Bắc vào
Nam và từ Đông sang Tây. Vùng mưa lớn tập trung ở các vùng núi cao như Ba
Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Quy hoạch và Quản lý tài nguyên nước